xuất hiện những vụ mất cắp nhỏ. Người ta đã tiến hành kín đáo điều tra, và
học sinh Sylvia đã thú nhận. Bà hiệu trưởng Amphrey sẽ rất sung sướng
nếu được gặp ông bà Battle, càng sớm càng tốt, để “cùng xem xét tình thế”.
Chánh thanh tra Battle gấp lá thư, bỏ vào túi áo, nói:
- Để anh lo chuyện này cho, Mary!
Ông đứng lên, vòng góc bàn, âu yếm vỗ nhẹ lên vai vợ, nói thêm:
- Em đừng lo lắng, em thân yêu. Anh sẽ thu xếp ổn thỏa chuyện này.
Rồi ông ra khỏi phòng, để lại cho bà vợ một chút động viên và niềm
hy vọng.
Buổi chiều, ông đến gặp bà hiệu trưởng Amphrey. Bà tiếp Battle trong
phòng làm việc bày biện hiện đại, cốt để tỏ rõ quan điểm sống của bà.
Chánh cảnh sát Battle ngồi thoải mái trên ghế xa lông, hai bàn tay to bè đặt
lên hai đầu gối, nhìn thẳng vào mắt bà hiệu trưởng, cố lấy tư thế một sĩ
quan cảnh sát oai vệ hơn thường lệ.
Bà Amphrey là một hiệu trưởng rất có giá, và rất danh tiếng. Bà tự hào
là biết cách kết hợp các nguyên tắc về kỷ luật với quan niệm tân tiến về
trách nhiệm của từng cá nhân.
Phòng khách của bà thể hiện tôn chỉ của trường Meadway, toát lên
một vẻ lạnh lùng. Trên nền tường màu vàng nhạt khá độc đáo, rất nhiều lọ
hoa và chậu cây cảnh các loại: thủy tiên, tuy-lip, dạ hương và nhiều thứ hoa
khác. Hai ba pho tượng phiên bản tác phẩm thời Hy Lạp, vài tác phẩm điêu
khắc quái đản của nghệ thuật hiện đại. Trên tường treo hai bức họa Italia
theo trường phái hoang dã, thể hiện khuynh hướng thẩm mỹ của chủ nhân.
Bản thân bà mặc bộ áo liền váy màu xanh nưóc biển. Người ta có cảm giác
bà là người phụ nữ năng động và hiểu biết. Mắt bà xanh nhạt, đeo cặp mắt
kính rất dày.
Bà nói giọng rành mạch, khúc chiết, bằng thái độ mà bà cho rằng đúng
ra phải như thế.
- “Cái chính là chúng ta phải nghĩ đến quyền lợi của cháu. Tôi nói ‘cái
chính’ với nghĩa là ông và tôi cần làm sao để cháu Sylvia không phải chịu
một hậu quả nào. Nhất là không để cảm giác tội lỗi đè nặng lên tâm hồn
cháu.