báo tin hắn đã hoàn tất các việc cần làm trong trang trại, rằng củi đã chất
đầy trong hộp và về hai xô sữa trước hiên nhà, còn lần cuối để thông báo
hắn sẽ vào nhà bằng cửa sổ đằng trước. Và mặc dù chẳng thấy cô gái trả
lời, hắn vẫn cứ giải thích lý do hắn ở đây, về việc Darby nhờ hắn đến bảo
vệ cô. Điều cần nói cũng đã nói, cô vẫn không bình tĩnh lại thì nói gì nữa
cũng vô dụng.
Hắn dừng lại trước một căn phòng nhìn có vẻ như đã từng là phòng
may. Mặc dù không thấy máy may nhưng có một chiếc váy chưa hoàn thiện
trải trên mặt bàn. Trong chiếc tủ đang mở là một con ma-nơ-canh, cùng với
mớ dây đăng- ten và đồ trang trí móc đầy trên giá treo bằng gỗ.
Đi lên chút nữa, hắn tìm thấy phòng đọc sách. Những mảng sáng hình
chữ nhật trên các tấm ván gỗ thông cho thấy nhiều kệ sách đã được gỡ đi.
Tất cả những gì còn lại chỉ là những cuốn sách hướng dẫn chăn nuôi và làm
nông nghiệp. Bình thường Joseph hẳn sẽ bị cuốn hút với những quyển sách
thể loại này, nhưng tối nay hắn cứ thấy bồn chồn không dứt, ám ảnh bởi ý
nghĩ người chết vẫn còn lởn vởn quanh đây.
Thật ra sâu trong lòng Joseph vẫn tin trên đời này có ma quỷ. Hắn
chưa từng nói với ai về điều này, nhưng trước giờ hắn vẫn nghĩ như thế.
Theo hắn, một người không thể tin vào Chúa và thế giới bên kia nếu như
không thừa nhận sự tồn tại của các linh hồn. Và mặc dù chưa bao giờ gặp
ma, hắn vẫn thầm cảm ơn Chúa vì điều đó, nhưng cái cảm giác ớn lạnh như
lúc này đây hắn cũng đã trải qua vài lần.
Vội vã đi đến cuối hành lang, hắn giật bắn người khi con chó Buddy
đột nhiên cất tiếng gầm gừ. Hắn tự nhủ Buddy vẫn luôn luôn gầm gừ như
thế để trấn tĩnh, nhưng không phải, lần này là một tiếng gầm gừ đầy cảnh
báo. Phía bên phải hắn hình như là một phòng khách lớn. Hắn giơ cao đèn,
trong phòng có vài thứ đồ đạc bị thiếu, nhìn cứ có cảm giác ai đó đã rời đi
và mang theo chiếc sô pha, ít nhất một cái ghế đơn và vài cái bàn.