mỗi tay choàng vào nách một đứa trong lúc vẫn còn thở hổn hển và nhìn
đăm đăm vào khoảng không.
“Nghe đây, Cóc!” Chuột Nước nói, giọng gay gắt, “ngay khi chúng ta
đến thị trấn, cậu sẽ phải đến ngay đồn cảnh sát xem họ biết gì về chiếc xe
hơi kia và ai là chủ chiếc xe đó để còn nộp đơn kiện. Sau đó cậu sẽ phải
đến thợ rèn hoặc thợ sửa bánh xe và thu xếp việc đem cổ xe về đó mà sửa
chữa. Sẽ mất thì giờ đấy, song cỗ xe đâu đã vỡ nát đến mức không còn có
thể sửa được. Trong thời gian đó, Chuột Chũi và tớ sẽ tới một quán trọ
kiếm vài buồng tiện lợi để chúng ta có thể ở lại cho tới khi cỗ xe đã sẵn
sàng, và cho tới lúc thần kinh của cậu bình phục trở lại sau cú sốc vừa rồi.”
“Đồn cảnh sát! Kiện!” Cóc lơ mơ thều thào. “Ta mà lại đi kiện cái ảo
ảnh đẹp đẽ tuyệt trần đã hạ cố với ta ư? Sửa chữa cổ xe! Ta đã chịu hết nổi
với xe ngựa rồi. Ta chẳng thể hình dung ta hàm ơn cậu bao nhiêu vì đã
đồng ý tham dự chuyến đi này đâu! Nếu không có cậu thì ta đã chẳng đi và
như vậy thì ta chẳng bao giờ có thể nhìn thấy cái… cái con thiên nga ấy, cái
tia nắng ấy, ánh chớp ấy! Ta có thể chẳng bao giờ nghe được cái âm thanh
mê ly ấy hoặc ngửi được mùi hương quyến rũ ấy! Nhờ cậu mà ta được tận
hưởng tất cả những thứ đó, người bạn tốt nhất trần đời của ta!”
Tuyệt vọng, Chuột Nước quay mặt đi, không nhìn thằng Cóc nữa. “Cậu
thấy rõ tất cả rồi chư?” nó nói với Chuột Chũi, vọng qua đầu Cóc: “Nó thật
là hết phương cứu chữa. Tớ chịu đấy – khi tới thị trí, chúng ta sẽ ra ga xe
lửa, và nếu may mắn, sẽ có thể đáp một chuyến tàu ở đó và về tới Bờ Sông
trong đêm nay. Và đố cậu còn bao giờ bắt gặp tớ rong chơi cùng với con
vật khó chịu này nữa!” Nó khịt khịt mũi, và suốt phần còn lại của cuộc bộ
hành mệt mỏi ấy nó cứ nói riêng với Chuột Chũi những ý kiến nhận xét của
mình.
Khi tới thị trấn, chúng đến ngay nhà ga và đặt thằng Cóc vào phòng đợi
hạng hai, đưa hai xu cho một người gác cổng và nhờ để mắt đến nó thật cẩn
thận. Sau đó chúng gửi ngựa vào chuồng tại một quán trọ và chỉ dẫn đủ