cửa lại cẩn thận.
Ra đến bên ngoài, nó dừng lại suy tính. Hai người bạn kia đang còn ở
tận đẩu tận đâu, nó chẳng có ai để mà hỏi ý kiến.
“Tốt nhất là phải chắc chắn,” nó nói sau khi đã cân nhắc kỹ. “Mình biết
trước kia thằng Cóc đã bỗng dưng tưởng tượng là nó ốm nặng; song mình
chưa bao giờ nghe nó đề nghị cho gặp một luật sư cả! Nếu sự thể không có
gì nghiêm trọng, bác sĩ sẽ bảo nó là đồ đại ngu xuẩn, và khích lệ nó; và như
thế sẽ là một điều có ích. Mình cứ chiều ý nó mà đi thì tốt hơn; cũng chẳng
mất nhiều thì giờ lắm.” Thế là nó vội vã chạy tới ngôi làng kia với một mục
đích từ thiện.
Thằng Cóc đã nhẹ nhàng nhảy ra khỏi giường ngay lúc nó nghe tiếng
chìa khóa vặn trong ổ khóa, hí hửng theo dõi từ trên cửa sổ cho tới khi bạn
mình khuất dạng cuối con đường dành cho xe ngựa. Rồi, vừa cười vang
hoan hỉ, nó vừa mặc thật nhanh bộ cánh bảnh nhất mà nó có thể tìm được
vào lúc ấy, nhét đầy các túi số tiền nó lấy trong chiếc ngăn kéo nhỏ của cái
bàn trang điểm, và sau đó buộc thắt nút những tấm khăn trải giường với
nhau và cột một đầu sợi dây tự tạo ấy vào chấn song giữa của cái cửa sổ
được xây theo phong cách Tudor (23) tạo ra một nét riêng cho phòng ngủ
của nó, rồi nó trèo ra ngoài và nhẹ nhàng tụt xuống đất. và, nhằm hướng
ngược chiều với Chuột Nước, nó vừa vô tư đều đều tiến bước vừa huýt sáo
một giai điệu tươi vui.
Bữa trưa hôm ấy đối với Chuột Nước thật là buồn chán khi mà rốt cuộc
bác Lửng và Chuột Chũi cũng trở về, và nó phải đối mặt với chúng cùng
câu chuyện tệ hại và không có sức thuyết phục của mình. Những lời nhận
xét vừa chua cay lại vừa thô bạo của bác Lửng thì ta có thể hình dung được
và chẳng phải bàn nhiều; nhưng thật đau xót cho Chuột Nước là ngay cả
Chuột Chũi vẫn luôn hết sức ủng hộ nó, cũng không thể không nói, ‘Dạo
này cậu là một kẻ hơi vô dụng đấy, Chuột Nước à! Thằng Cóc cũng vậy, vô
dụng nhất trong các loài vật!”