Như thường bữa, bà bắc nước lên bếp, nấu ăn. Bà kéo màn cửa sổ, xong
đâu đấy, bà lại càng thấy quạnh hiu cô độc. Bà chóng mặt, mệt mỏi. Bà
nhìn mặt ông, bà không sợ người chết. Đêm nay, bà phải ngủ trong phòng
một mình bên cạnh xác chết. Còn ba đêm nữa, đến ngày chôn, bà cũng phải
ở trong nhà đơn độc một mình với tử thi.
Bà nhớ đến lời viên quản: “Hay là chồng bà Do Thái!”
Bà đứng giữa nhà, khoanh tay, không biết phải làm gì.
Nước sôi, nhưng bà không đói. Giường sẵn, bà có thể nằm, nhưng bà không
buồn ngủ. Bà phải làm cái gì mới được. Đầu óc, thân xác bà xúc động,
thảm khổ, não nề. Bà không thể ngồi yên được. Bà phải cử động cho khuây
khỏa. Lại thêm cảnh tịch mịch vắng vẻ! Bà kéo màn cửa sổ một lần nữa, và
đi lại gần chỗ ông nằm, bà tưởng như viên quản đứng kế bên bà và nói vào
tai: “Hay là chồng bà Do Thái”.
Bà ngó ông, rời giở mền ra. Mình ông phù lên. Nhìn áo sơ-mi và quần cụt
vải gai đã bao lần tự tay bà giặt ủi, bà mở dây nịt và tuột quần khỏi đầu gối.
Da người chết đã tím bầm. Bà nói to: “Tại sao ta lại mắc cỡ? Chồng ta
mà!”.
Bà nhớ lúc hai vợ chồng còn son trẻ, mà bây giờ thì mình mẩy ông đã tím
bầm.
Câu “Hay là chồng bà Do Thái!” văng vẳng bên tai bà. Bà đưa tay rờ ngay
chỗ của ông, thấy lạnh ngắt và tím bầm, như mí mắt, cái mũi, đôi môi. Bà
giựt mình kéo quần lên và đắp mền lại. Bà đứng dậy run run làm dấu thánh
giá: “Lạy Chúa! Đội ơn Chúa cho con ngừng lại đúng lúc”. Bà lại làm dấu
chữ thập lần nữa và nó: “Nếu tôi coi thấy thì tôi sẽ bị lửa Địa ngục thiêu
đốt. Đó là một trọng tội. Nhưng tôi không coi, không thấy gì hết. Tôi không
muốn biết ông có phải Do Thái hay không. Tôi không muốn!”