ngột. Đúng thế. Bầu trời bắt đầu nhợt nhạt. Những đám mây lao đi khắp
nơi, che kín mặt trời. Đâu đâu cũng vang lên tiếng rít thê lương, tiếng sóng
vỗ, biến và gió bắt đầu “to tiếng”
với nhau.
Và lúc đó trong tôi nảy ra những ý nghĩ buồn buồn. Tôi thấy giận Biata
đã thiếu quan tâm đến tôi. Các kênh thông tin của họ dù có bận đến đâu
chăng nữa, cô ta vẫn có thể dành được, dù chỉ một phút nói chuyện với tôi
trong đài quan sát, hoặc gửi cho tôi một bức điện bằng hình ảnh ngắn gọn.
Không, chắc là có chuyện gì khác thường. Bao giờ được gặp gỡ tôi sẽ thổ
lộ với cô ta trước tiên. Thế là sự thật cay đắng còn hơn một cái gì mơ hồ.
Lúc đó tôi cảm thấy mình đau khổ vì cô ta. Nhưng tôi không đúng. Hồi
mùa đông cô ta nói với tôi: “Tôi biết, không nên nói thêm về vấn đề này.
Tôi còn chưa hiểu thế nào. Khi nào hiểu ra, tự tôi sẽ nói với anh, được
chứ?”
Trong tiếng “được chứ”
đối với tôi bao hàm sự hứa hẹn gần như “vâng”.
Tôi bắt đầu suy nghĩ về sự phức tạp của cuộc sống, về hạnh phúc, mà nếu
thiếu Biata sẽ trở nên vô nghĩa. Tôi buồn đến nỗi có thể lao ngay xuống
biển theo chân Côxchia.
Không có phương tiện nào có thể lấy lại sự thăng bằng về tình cảm đã
mất đi, hơn là bơi thoải mái trong lòng biển. Những ưu phiền trần tục sẽ
nhường chỗ cho những lượng cảm xúc mới và những ưu phiền đó dường
như trở nên không đáng kể trong thế giới xanh lơ dưới nước...
Con chim báo bão giương đôi cánh hẹp bất động lơ lửng trên mặt biển
đầy xáo động. Nó là hiện thân cho một sự cô độc, chỉ có nó và đại dương
trong bầu trời này. Hình tượng này làm tôi thích thú vì tôi cảm thấy mình
cũng không khác một kẻ phiêu lãng đơn độc.
Trong tôi bắt đầu hình thành những dòng thơ không vần về sự tìm kiếm
hạnh phúc lâu dài. Nhưng Tavi và Prôtây đã cản trở. Chúng đột nhiên ngoi
lên khỏi mặt nước, phun nước phì phì và vọt qua xuống. Từ xa chúng để ý
thấy dáng phiền muộn của tôi, tưởng tôi thiu thiu ngủ nên quyết định đánh
thức tôi bằng cách độc đáo như vậy. Những trinh sát viên bơi đến và thông