sức để chống lại cơn buồn ngủ, nó dựa chiếc vây lành lên lưng một con bên
cạnh đã ngủ mơ mơ màng màng...
Người máy thông tin chuyển hình sang khu vực cánh đồng phù du quen
thuộc, nơi chăn cá voi. Từ trên màn ảnh Machinđa nhìn chúng tôi bằng cặp
mắt ti hí, “cười” phô bộ ria mép tuyệt đẹp dài hàng thước.
Trong khi chiếc tàu “Con mực” đang ì ạch kéo chiếc phao sà lan có chứa
cá kình đến chỗ chúng tôi, thì mọi sinh viên thực tập, có nghĩa là tôi,
Côxchia, Pêchia Xamôilốp, Kỳ cũng như Ninxen, Lagơrănggiơ, Trauri
Xinkhơ, Corinhtơn cùng bắt tay vào sửa soạn chỗ ở cho khách. Trong vũng
biển của chúng tôi có một bến nhỏ có đủ thuyền thể thao và tàu. Đáy bến là
đá ba-dan, cửa vào vũng biển hẹp đến mức ngay cả những hôm dông bão ở
đây vẫn lặng sóng. Trước kia, khi chưa giam Giéc Đen ở đây, không một ai
trong chúng tôi biết được rằng cái vũng biển nhỏ thuận tiện này được
những người xây dựng đảo dùng làm bể thí nghiệm, chứa đenphin. Hồi đó
trong các nhà bác học còn tồn tại một quan điểm phản động cho rằng trong
trường hợp tốt nhất có thể biển đenphin thành gia súc và sử dụng chúng
như những con chó.
Những sinh vật cao đẳng ở biển bị hành hạ trong hàng ngàn bể thí
nghiệm mà chẳng hiểu những sinh vật hai chân với cặp vây dài vụng về ấy
muốn gì chúng.
Thói thường bất kỳ một hiện tượng tiến bộ mới nào nảy sinh cũng đều
gặp cản trở của những người không hiểu biết, đôi khi còn của cả những
người không muốn thoát khỏi tù ngục của những hình tượng cổ hủ. Lịch sử
cho chúng tôi biết được rằng loài người đã phải trả cái đó bằng một giá thế
nào. Ở trường hợp này mọi việc đều trôi chảy. Trong khi những người ủng
hộ “bể chứa ngăn cách”
các đenphin đã xây dựng những “vùng chắn” -
những bể thí nghiệm, thì những nhà bác học của khuynh hướng tiến bộ đã
lập từ điển ngôn ngữ đenphin, nghiên cứu tâm lý của các sinh vật cao đẳng
ở biển. Họ đã chế tạo các máy đầu tiên để phiên dịch tiếng nói đenphin
sang tiếng Nga, tiếng Anh và từ những tiếng này sang tiếng đenphin.