trưng phổ quát; chính nó có thể giải thích những sự loại suy từ các giấc mơ,
các hành vi thất bại, các cơn mê sảng, các tỷ dụ và số phận con người; nói
về tự do, là tự mình khước từ khả năng giải thích những sự trùng hợp rắc
rối ấy. Nhưng khái niệm tự do không mâu thuẫn với sự tồn tại của một số
trường hợp bất biến. Sở dĩ phương pháp phân tâm học thường thu được kết
quả mặc dù những sai lầm về lí thuyết, là vì trong mọi câu chuyện khác
thường, có những dữ kiện mà không bị một ai nghĩ chuyện phủ nhận tính
khái quát: tình huống và hành vi được lặp đi lặp lại, nảy sinh thời khắc
quyết định. “Giải phẫu học, chính là số phận” Freud từng nói như vậy
hưởng ứng câu nói này, Merleau-Ponty khẳng định: “Thân thể, chính là sự
khái quát”. Cuộc sống là sự thống nhất qua sự phân chia các sinh vật: nó
biểu hiện trong các cơ thể giống nhau; vì vậy, có những hằng số trong mối
quan hệ giữa cái thuộc bản thể luận và cái thuộc giới tính. Vào một thời kỳ
nhất định, kỹ thuật, cơ cấu kinh tế và xã hội của một tập thể, phát hiện cho
mọi thành viên của nó một thế giới giống nhau: cũng sẽ có một mối quan
hệ thường xuyên giữa bản năng sinh dục với các hình thái xã hội; những cá
thể giống nhau, được đặt trong những điều kiện giống nhau; sẽ nắm qua
nhận thức của mình, những ý nghĩa giống nhau; sự giống nhau này không
tạo nên một tính phổ quát chặt chẽ, nhưng cho phép tìm thấy trong lịch sử
các cá thể những mô hình khái quát. Chúng tôi không cho biểu tượng là
một lối phúng dụ do một vô thức bí ẩn tạo nên. Trong thực tiễn, phương
pháp phân tâm học buộc phải công nhận điều đó, dù học thuyết phân tâm
học có cho phép hay không. Phân tâm học chỉ có thể tìm thấy chân lý của
mình trong bối cảnh lịch sử: chủ nghĩa tượng trưng không từ trên trời rơi
xuống, cũng không phải từ dưới lòng đất chui lên; cũng như ngôn ngữ, nó
do cuộc sống con người tạo thành.
Nếu nói phụ nữ là một con cái là không đủ, thì cũng không thể xác định
phụ nữ qua ý thức của họ về nữ tính của mình: họ nhận thức nữ tính ấy
trong lòng xã hội mà mình là thành viên. Mỗi cuộc đời là một mối quan hệ
với thế giới.
Chúng tôi không phủ nhận toàn bộ những đóng góp của phân tâm học và
một vài khái luận tỏ ra bổ ích, nhưng bác bỏ phương pháp phân tâm học.