Thời Trung đại, người phụ nữ còn giữ được một vài đặc quyền: ở làng
xã, họ dự các hội đồng dân cư, tham gia các buổi họp sơ bộ để bầu đại biểu
Hội nghị toàn cấp (États généraux); và người chồng chỉ có toàn quyền đối
với động sản: muốn bàn hay nhượng bất động sản, phải được sự đồng ý của
vợ.
Vào thế kỷ XVI, ra đời các đạo luật được thi hành trong suốt thời kỳ chế
độ Cũ. Vào thời kỳ này tập tục phong kiến đã hoàn toàn biến mất và không
còn có gì bảo vệ phụ nữ chống những đòi hỏi của đàn ông muốn trói chặt
họ trong gia đình. Ảnh hưởng của luật pháp La Mã vốn rất khinh miệt phụ
nữ, thể hiện ở đây. Cũng như ở thời kỳ người La Mã, văn thơ châm biếm
độc địa sự dại dột và yếu kém của phụ nữ, không phải có cội nguồn từ luật
pháp, mà xuất hiện như những lời biện minh; xong việc rồi, đàn ông mới
bày đặt ra lý do hành động của họ một cách tùy tiện. Phụ nữ không có một
quyền lực dân sự nào. Quyền huynh trưởng và đặc quyền của nam giới đặt
họ vào vị trí thứ hai để hưởng thừa kế của cha. Nếu là độc thân, người con
gái chịu quyền giám hộ của cha: nếu không lấy chồng thì thông thường bị
cha nhốt vào tu viện. Nếu có con ngoài giá thú, họ có quyền ốt tụng để tìm
cha đứa bé, nhưng để rồi chỉ được hưởng chi phí sinh đẻ và cái ăn cho đứa
con. Khi lấy chồng họ bị đặt dưới quyền lực của chồng: chồng quy định
chỗ ở, điều kiện cuộc sống gia đình, bỏ vợ trong trường hợp ngoại tình,
nhốt vợ vào tu viện hoặc về sau có thể tìm cách tống giam vào ngục
Bastille.
Phụ nữ không có quyền tự quản lý tiền vốn của mình: mọi phần đóng
góp vào cộng đồng đều được đồng hoá vào của hồi môn theo cái nghĩa từ
này ở La Mã; nhưng vì hôn nhân là không thể phân ly, nên chỉ khi nào
chồng chết, người vợ mới có quyền sử dụng tài sản trong gia đình. Ngay cả
con cái, cũng như ở thời kỳ Euménides
, người ta cho là chúng thuộc
người cha, chứ không thuộc người mẹ: đàn bà chỉ “cung cấp” con cho
chồng mà quyền lực lớn hơn rất nhiều quyền lực của vợ, và người cha là
chủ đích thực của hậu duệ mình. Thậm chí sử dụng cứ liệu này, Napoléon