193
m nh; nhưng chủ yếu, bằng cách buộc đ|n ông phải chờ đợi, phụ nữ phản
kháng sự chờ đợi dai dẳng cuộc đời họ phải hứng chịu, ở một mặt n|o đó,
toàn bộ cuộc đời này là một sự đợi chờ vì bị nhốt kín trong sự mơ hồ của
trạng thái nội tại, ng u nhiên, và nằm trong tay người khác. Họ chờ đợi
lòng biết ơn, sự t{n thưởng của đ|n ông, chờ đợi tình yêu, chờ đợi th{i độ
ân cần và những lời khen ngợi của chồng, của người yêu; chờ đợi ở những
người này lý do tồn tại, giá trị và thậm chí cả con người mình. Họ chờ đợi
phương tiện sinh sống. Dù có nắm trong tay tập séc hay hàng tháng, hàng
tuần nhận tiền chồng trao cho, thì v n phải chờ đợi ngày chồng lĩnh lương,
chồng lĩnh thưởng mới có thể thanh toán nợ nần với cửa hiệu tạp hoá hoặc
mua chiếc áo mới. Họ chờ đợi sự có mặt của chồng: vì phụ thuộc về kinh tế,
cả cuộc đời họ phụ thuộc vào chồng. Họ chỉ là một yếu tố của đời sống
nam giới, trong lúc chồng là toàn bộ cuộc đời của họ. Chồng có công việc ở
ngoài gia đ nh, v| vợ chịu đựng sự vắng mặt của chồng suốt ngày này qua
ngày khác.
Nói chung, tuy trên đại thể thừa nhận ưu thế và quyền lực của đ|n ông,
tôn thờ thần tượng nam giới, phụ nữ v n từng bước phản kháng sự thống
trị của giới n|y. Đó l| nguồn gốc của “tinh thần chống đối” m| người ta
thường chê trách họ. Không có một địa hạt độc lập, họ không thể đưa
những chân lý, những giá trị tích cực đối lập lại những chân lý, những giá
trị m| đ|n ông khẳng định; họ chỉ có thể phủ nhận chúng. Sự phủ nhận
này mang tính chất triệt để. nhiều hay ít tuỳ theo quan hệ tỷ lệ giữa tôn
trọng và hận thù trong lòng họ. Nhưng có điều là họ biết tất cả mọi kẽ hở
của hệ thống nam giới và không ngần ngại tố cáo chúng.
Phụ nữ khống có ảnh hưởng đối với thế giới đ|n ông vì kinh nghiệm
không bày dạy cho họ sử dụng logic học và kỹ thuật. Dĩ nhiên, trong vi n
cảnh ấy, phụ nữ phủ nhận thứ logic của nam giới. Chẳng những nó không
t{c động tới kinh nghiệm của họ, mà họ còn biết là khi nằm trong tay đ|n