194
ông thì lý lẽ trở thành một thứ hình thức gian xảo của bạo lực: những lời
khẳng định như đinh đóng cột của nam giới đều nhằm phỉnh phờ họ.
Người ta muốn nhốt chặt họ trong một lưỡng đề, buộc họ phải đồng tình,
hoặc không đồng tình. Nhân danh toàn bộ hệ thống những nguyên tắc
được chấp nhận, họ buộc phải đồng tình: nếu không đồng tình, tức là phù
nhận toàn bộ hệ thống. Họ không thể cho phép mình làm một việc “động
trời” như vậy; họ không có phương tiện xây dựng lại một xã hpi khác. Thế
nhưng họ không tán thành xã hội hiện tại. Đứng ở ngã ba đường giữa sự
phản kháng và tình trạng nô lệ, họ đ|nh nh n nhục và mi n cưỡng chấp
nhận quyền uy của nam giới. Trong mọi trường hợp, người ta dùng bạo
lực để buộc họ gánh chịu những hậu quả của những sự phục tùng bất đắc
dĩ của m nh. Đ|n ông v n theo đuổi cái ảo tưởng vẻ một người bạn đời “nô
lệ một cách tự do”: muốn vợ trong l c nhượng bộ mình, chấp nhận tính
hiển nhiên của một định lý. Nhưng phụ nữ biết là:hính ông chồng đã chọn
lấy những định đề mà những điều suy di n của anh ta bám chắc v|o đó.
Chừng nào họ chưa đặt lại những định đề ấy, thì anh ta v n d dàng bắt họ
phải im miệng, dù không thể thuyết phục nổi họ vì họ biết rõ c{i võ đo{n
của những định đề ấy. Vì vậy, anh ta giận dữ lên án họ là cứng cổ, là phi
logic: họ không nhập cuộc vì biết là cuộc chơi gian lận. Phụ nữ không nghĩ
một cách cụ thể rằng chân lý là cái gì khác những điều đ|n ông đề xướng,
mà cho rằng không có chân lý. Không phải chỉ có quá trình biến đổi của
cuộc sống khiến họ nghi ngờ nguyên lý đồng nhất, v| c ng không phải chỉ
có những hiện tượng ma giáo xung quanh họ huỷ hoại quan niệm của họ
về quan hệ nhân quả; chính trong lòng thế giới đ|n ông, chính trong bản
thân họ, họ hiểu được tính nhập nhằng của mọi nguyên lý, mọi giá trị, mọi
thứ trên đời. Họ biết đạo lý của nam giới chỉ là một sự lừa phỉnh khủng
khiếp. Đ|n ông long trọng {p đặt quy tắc đạo đức và danh dự của mình
cho phụ nữ, nhưng lại âm thầm khuyến khích họ không tuân theo; thậm