ta tóm được, nói về phong-trào quốc-gia cách-mạng Việt-Nam từ 1904 đến
1914-18 nhìn nhận ông Thành-Thái là vị vua đã giả khùng để bất hợp-tác và
ngấm-ngầm hộ-trợ các nhà cách-mạng.
Vì thời nước ta chưa tới, vận số dân ta còn đen, nên trong thời kỳ này
những cuộc mưu toan nổi dậy diệt quân Pháp giành lại chủ-quyền đều bị
phát giác trước khi cử sự chỉ vì kẻ tay trong phản-phúc chạy đi báo-cáo với
người Pháp để đổi bạc vàng chức tước.
Đồng bào đoán hiểu nỗi khổ tâm của vị vua có tinh-thần bất-khuất nên
luôn dành sẵn một cảm tình nồng-nhiệt với vua Thành-Thái. Tuy miền Nam
thời kỳ ấy là thuộc-địa không còn dính dáng gì với quan Nam-triều, nhưng
người miền Nam hãy còn lưu-luyến với quân-vương ; quan-niệm dân-chủ
chưa được tiêm nhiễm, rộng sâu, người dân miền Nam hãy còn coi ông vua
là tượng trưng, đại diện chơn chánh cho tinh-thần quốc-gia dân-tộc.
Phong-trào kháng Pháp sôi nổi từ miền Trung lan ra Bắc. Miền Nam
đợi chờ hưởng ứng nhưng liên-lạc khó-khăn. Chính vào lúc này vua Thành-
Thái tính mở một cuộc Nam du. Bề ngoài với lý-do chánh thức là về Gò-
công thăm quê ngoại của Tiên-hoàng nhà Nguyễn ; lý-do chánh thầm kín
bên trong là vua Thành-Thái muốn thăm dò dân-tình ở những miền đã lọt ra
khỏi quyền hạn của Triều đình, nhắc nhở đồng bào miền Nam nhớ lại
nguồn gốc của chính mình, liên lạc với các nhà cách-mạng miền Nam nếu
có cơ-hội.
Người Pháp không có lý-do gì chánh đáng để cản-trở. Thế là Ngài ngự
Nam du !...
Vua Thành-Thái vô Sài gòn, được nghinh-tiếp trọng thể theo nghi-lễ.
Người Pháp thực-dân khôn-ngoan biết giữ thể-diện cho những vị vua bị đô-
hộ, một để mua lòng người trong cuộc, hai để khoe khoang với thế-giới bên
ngoài rằng họ luôn luôn kính trọng tục lệ lễ-giáo của nhơn dân những miền
bị họ « khai hóa » ! Dân chúng Sài-gòn cũng rầm rộ hân hoan đón tiếp nhà