mời Thủy-tướng, trong khi các lễ sinh dưng rượu và trầm hương, nhạc lễ
trổi lên đưa hơi cho con hát, trống phách nhịp nhàng đệm bước các lễ sinh.
Nghinh lễ cử hành xong, thuyền trở về đình cũng do rạch Vàm-Láng.
Hai bên bờ rạch, các ghe chài lớn đều treo hoa kết tụi, đèn giấy đủ màu
đốt sáng, treo từ mũi đến lái, từ mui ghe lên đến cột buồm. Các thuyền nhỏ
của ngư phủ nghèo nàn cũng cố gắng thắp đèn giấy, đốt đuốc hay đèn chai,
nên đêm ấy suốt đường sông hiện ra cảnh rực-rỡ huy-hoàng của một hội
hoa đăng giống cảnh Sông-Hương đêm Hưng quốc Khánh-niệm. Trên mỗi
ghe thuyền, trước cửa mỗi nhà ở hai bên bờ rạch đều có đặt bàn hương án
với hương hoa lễ vật đèn đuốc rạng ngời. Vui thật là vui, toàn thể dân làng
chung vui ngày đại-hội. Khi ghe chở vị hương-chức và các lễ sinh vào rạch,
mỗi ghe thuyền, mỗi nhà hai bên bờ rạch đồng loạt đốt pháo nổ vang, tiếng
pháo nổ ròn liên tiếp không ngừng, cho tới khi ghe cập bến trước đình mới
dứt.
Cuộc lễ tiếp-tục. Người ta long trọng khiêng lư hương từ dưới ghe lên
bờ vào đình. Đó là lễ an vị.
Thế rồi ban hát bộ xây chầu, dân làng thỏa thích cùng nhau ăn uống và
xem hát, một cuộc vui hiếm có cho dân chài, và dân chúng quanh vùng phụ
cận đến dự đông đảo, mua bán tấp nập, đủ thức ăn của miền biển, cờ bạc
đánh công khai trong mấy ngày không ai ngăn cản.
Những ngày trên đây là ngày thiêng liêng trọng đại của các giới ngư
phủ, một nghề vừa lao lực vừa hiểm nguy phải mong chờ ở thần quyền che
chở cho mạng người nhỏ nhen trước những cơn giận dữ của phong ba biển
cả.
BÀ TỪ-DŨ VÀ MẮM TÔM GÒ-CÔNG
Nói đến nhân vật Gò-công, ta không thể không nhắc đến Bà Từ-Dũ,
một bông hoa của đất Gò, đã ngự-trị một thời ở Triều Huế.