nước lâm nạn, thế thì sự nghiệp của nhà Nguyễn đành tiêu-tan theo mây
khói, các vì vua trước kia nếu không bị kết tội đã là may mắn lắm rồi.
Đồng bào trí-thức nước ta, không thiếu chi người nghiên cứu lịch sử
Nguyễn triều đã sanh mối nghĩ : Phải chi Gia-Long thất bại, Quang-Trung
thành đế-nghiệp và không chết sớm thì số phần nước Việt có đến đổi như
ngày nay không nhỉ ? Với vị anh-hùng Quang-Trung Nguyễn-Huệ, lấy
Lưỡng-Quảng của Càn-Long để mở rộng bờ cõi, biết trọng dụng nhơn tài,
mở rộng tầm mắt nhìn ra thế-giới không ngu đần tin-tưởng mình là « rún
của vũ-trụ », mở lập hải-cảng giao thương với các nước, gởi thanh-niên du
học, khai phóng phong-trào « Duy-Tân » như Minh-trị, Thiên-hoàng ở
Nhựt, thì nước Việt Nam ngày nay sẽ đến đâu ? Dầu sao cũng không đến
đổi bị thực-dân đô-hộ hơn 80 năm, dân-tộc phải hao mòn chiến-đấu trường
kỳ gian-khổ để dịch chủ tái nô thay vì độc-lập. Nhưng thôi, định mệnh đã
an bài, chỉ còn có thể lấy câu định mạng để tìm an-ủi, tiếc thương sầu não
chẳng ích gì.
Lên kế-vị vua cha Thiệu-Trị, vua Tự-Đức mang tiếng là một vị vua ưa
văn-chương thi-phú, ngoài việc làm thi đáp họa và ngâm ca vịnh, trên thực
tế có làm được một việc gì hữu-ích cho nước non ? Đã vậy lại có tánh tự-
đắc không trông thấy sự tiến bộ ở bên ngoài được người xuất ngoại về thức
tỉnh như Nguyễn-Trường-Tộ ; Phan-Thanh-Giản. Nhà vua không đủ đức tin
để mà tin những tiến bộ của thế giới bên ngoài về khoa học. Thiếu óc nhận
định lại nghe lời một bọn ngu thần, bác bỏ tất cả những ý-kiến đề-nghị canh
tân cải tiến của Nguyễn-trường-Tộ, để đi lần tới mất nước.
Tự-Đức chỉ có một điểm đáng khen là làm con có chí hiếu. Đối với mẹ
là Bà Từ-Dũ ông một mực kính thờ, người ta thuật lại rằng Tự-Đức lớn, khi
lên ngôi vua, nhưng khi có lỗi vẫn phải nằm cho mẹ đánh đòn. Và một hôm
sau trận đòn ông ứa lệ. Bà Từ-Dũ bất bình hỏi : « Bộ oan ức, câm tức hay
sao mà khóc ? ».