Sudan là nước đầu tiên ở châu Phi giành độc lập sau Thế
chiến thứ hai. Trước đó nó là thuộc địa Anh, với hai thành phần
được gắn với nhau trên giấy tờ, một cách giả tạo: miền Bắc Hồi
giáo Ả rập và miền Nam Cơ Đốc giáo “da đen” (và duy linh). Giữa
hai cộng đồng này có sự đối lập, thù nghịch và mối căm hận lâu
đời, bởi ngưởi Ả rập miền Bắc đã xâm lăng miền Nam trong
nhiều năm trời, bắt dân của họ bán làm nô lệ.
Làm sao hai thế giới thù địch như thế có thể chung sống
trong một quốc gia độc lập? Không thể. Và đó chính là điều
người Anh muốn. Những năm ấy, các đế quốc châu Âu tin rằng
dù từ bỏ các thuộc địa trên hình thức, họ vẫn cai quản chúng
trên thực tế, ví dụ như ở Sudan, nơi họ thường xuyên hòa giải
những người Hồi giáo miền Bắc và người Cơ Đốc giáo miền Nam.
Song chẳng bao lâu, những ảo tưởng đế quốc ấy không còn sót
lại bao nhiêu. Ngay từ năm 1962, ở Sudan, cuộc nội chiến thứ
nhất giữa miền Nam và miền Bắc đã bùng nổ (được khơi mào
bằng những cuộc nổi dậy và khởi nghĩa ở miền Nam trước đó).
Năm 1960 khi lần đầu tiên đi về miền Nam, ngoài thị thực
Sudan, tôi phải có thêm một thị thực đặc biệt trên biểu mẫu
riêng. Ở Juba, thành phố lớn nhất miền Nam, tôi bị một sĩ quan
biên phòng tịch thu mất. “Thế này là thế nào!” - tôi nổi sùng. Tôi
cần nó để đến biên giới Congo cách đây hai trăm cây số. Viên sĩ
quan chỉ vào mình, không giấu vẻ tự hào: “Tôi chính là biên
giới!” Anh ta nói. Quả thực, bên ngoài cửa ngõ thành phố là
vùng đất trải dài, nơi chính phủ Khartoum đã không còn mấy
quyền lực. Và đến nay vẫn thế, một đơn vị Ả rập bảo vệ Juba, còn
vùng bên ngoài nằm trong tay quân du kích.
Cuộc chiến Sudan đầu tiên kéo dài mười năm - đến năm
1972. Sau đó, suốt mười năm tiếp theo là tình trạng hòa bình
mong manh, tạm thời, rồi năm 1983 khi chính quyền Hồi giáo ở
Khartoum muốn áp đặt luật Hồi giáo (Sharia) lên toàn quốc, bắt