chỉ đường, dấu hiệu, biển báo. Không có bản đồ chính xác.
Thêm vào đó, chính những con đường ấy lại chạy khác nhau
phụ thuộc vào mùa, thời tiết, mực nước, mức lan xa của các đám
cháy không ngừng xảy ra ở đây.
Hy vọng duy nhất là có ai đó ở đây, người bản xứ, rành đường
đi lối lại, biết cách giải mã phong cảnh mà với chúng ta là một
tập hợp biểu tượng và dấu hiệu chẳng nói lên điều gì, khó hiểu
và bí ẩn hệt như chữ Trung Quốc. “Cái cây này nói với anh điều
gì?” “Chẳng nói điều gì cả!” “Chẳng nói điều gì ư? Nhưng nó nói
rằng bây giờ anh phải rẽ trái, nếu không anh sẽ lạc cơ mà? Thế
hòn đá này thì sao?” “Hòn đá này? Cũng không nói gì hết!”
“Không gì hết? Anh không thấy hòn đá này là dấu hiệu để chúng
ta rẽ phải ngay hay sao? Rẽ ngoặt về bên phải, vì xa hơn không
có đường, không có người, là cái chết”.
Bằng cách ấy, người bản xứ này, chuyên gia chân đất mộc mạc
về chữ viết của phong cảnh, người đọc thông các chữ tượng
hình khó hiểu của nó, trở thành người dẫn đường và vị cứu tinh
của anh. Mỗi người họ mang trong bộ nhớ tấm bản đồ địa lý của
mình, bức tranh riêng về thế giới bao quanh anh ta, thứ kiến
thức và nghệ thuật quý giá nhất, bởi trong cơn giông bão khủng
khiếp nhất, trong bóng tối dày đặc nhất, nó cho phép anh ta tìm
thấy đường về nhà và nhờ đó mà thoát nạn, sống sót.
Cha Stanislawek ở đây đã nhiều năm, nên ông đưa chúng tôi
đi qua cái mê cung rối rắm của vùng này không khó khăn gì,
cho đến khi về đến tận mục sư phòng của ông. Đó là một khu
trại tồi tàn, tạm bợ, là ngôi trường làng đã đóng cửa vì thiếu giáo
viên. Một lớp học là nơi ở của cha: cái giường, cái bàn, cái bếp,
cây đèn dầu. Ở lớp học tiếp theo là nhà nguyện. Bên cạnh khu
trại là đống đổ nát của một nhà thờ nhỏ bị sập. Bây giờ, nhiệm
vụ của nhà truyền giáo, công việc chính của ông là xây nhà thờ