túi. Họ đi quanh, ngắm nghía các giá bày hàng, đứng trên các
góc phố, ngồi trên những băng ghế - họ vô công rồi nghề và đói.
Chuông nhà thờ đã thôi ngân, vị thầy tu báo giờ đã im tiếng,
vầng mặt trời chói lòa rực lửa xuất hiện từ sau dãy núi Yemen và
xe buýt của chúng tôi khởi hành. Đó là một chiếc xe Fiat cổ lỗ sỉ
không thể xác định được màu, thân xe bị gỉ ăn mòn và đã quá
nhiều lần bị đâm, bẹp. Xe lao xuống dốc từ độ cao hai nghìn
năm trăm mét qua các thửa ruộng bậc thang. Tôi không đủ can
đảm miêu tả hành trình này. Anh tài xế xếp tôi, người châu Âu
duy nhất, ngồi cạnh mình. Anh là một tài xế trẻ, nhanh nhẹn và
cẩn thận. Anh đi con đường này đã thạo và biết rõ từng cái bẫy
chết người. Trên đoạn đường một trăm cây số có đến vài trăm
khúc ngoặt, đúng ra, cả tuyến đường chỉ toàn các khúc ngoặt, lại
thêm đường hẹp, sỏi trơn, lúc nào cũng chạy bên mép vực,
không hề có thanh chắn hay hàng rào bảo vệ.
Ở nhiều khúc ngoặt, nếu ai không sợ độ cao và dám nhìn
xuống, có thể thấy ở dưới sâu, rất sâu nơi đáy vực, các xác xe
buýt, xe tải, xe bọc thép và xương của đủ loại súc vật, có lẽ là lạc
đà, cũng có thể là la hay lừa. Có những thứ rất cũ, nhưng nhiều
cái - mà những cái này là kinh sợ nhất - hoàn toàn mới. Anh tài
xế và hành khách rất ăn ý, rõ ràng là họ tạo thành một nhóm
phối hợp nhịp nhàng: khi chúng tôi bắt đầu rẽ, anh tài xế kêu
thật dài “yyyaahhh!”, các hành khác nghe thấy thế liền nghiêng
người sang phía ngược lại với chiều rẽ, tạo cho chiếc xe buýt
một chút đối trọng - nếu không, nó sẽ lao thẳng xuống vực.
Thỉnh thoảng trên khúc ngoặt lại có một án thờ kiểu Copt sặc
sỡ, được trang trí bằng những chiếc nơ cùng hoa giả khoa
trương và các tranh thờ vẽ theo trường phái hiện thực ngây thơ,
nơi có vài thầy tu gầy gò khô héo quanh quẩn. Khi xe buýt giảm
tốc độ, họ chìa bát ra ngoài ô cửa sổ đất để hành khách ném vào