London ủng hộ - thành lập. Đó chính là những gì xảy ra trên đảo
hai ngày trước.
- Karume có ở đó không ư? - Subotnik phá lên cười theo cái
kiểu khiến tôi biết chắc chắn một điều: anh ta đang ở đó.
Và tôi chỉ cần có thế.
Tôi quay lại sân bay. Tôi và Felix lẩn lút vừa đi vừa nấp để
không ai nhìn thấy. Chúng tôi đến được tháp điều khiển không
lưu. Felix đề nghị một người trực tại đó nối điện thoại với trạm
điều khiển không lưu ở Zanzibar. Khi đầu dây bên kia có tiếng ai
đó trả lời, tôi cầm lấy ống nghe và xin nói chuyện với Karume.
Anh không ở gần quanh đó, nhưng anh sắp đến ngay. Tôi đặt
máy và chúng tôi quyết định chờ. Mười lăm phút sau chuông
điện thoại reo. Tôi nhận ra giọng nói khàn khàn và vang rền như
sấm của anh. Suốt hai mươi năm trời, Karume đã đi thuyền
khắp thế giới như một thủy thủ bình thường và giờ đây, ngay cả
khi nói vào tai ai đó, anh cũng oang oang như đang át đi tiếng
gầm gào của biển trong giông bão.
- Abeid - tôi nói - chúng tôi có một chiếc máy bay nhỏ và ba
người: một người Mỹ, một người Pháp và tôi. Chúng tôi muốn
bay đến chỗ các anh. Có được không? Chúng tôi sẽ không viết
bất cứ thứ rác rưởi nào, tôi hứa. Tôi xin thề - không một sự dối
trá nào. Anh có thể làm sao để họ không bắn khi chúng tôi hạ
cánh không?
Im lặng kéo dài trước khi tôi lại nghe thấy tiếng anh. Anh nói
chúng tôi đã được phép và họ sẽ chờ ở sân bay. Chúng tôi chạy ra
máy bay và giây lát sau đã ở trên không, bay trên biển. Tôi ngồi
cạnh phi công, còn phía sau - Felix và Arnold. Trong ca bin im
lặng bao trùm. Chắc chắn là chúng tôi vui mừng vì đã qua được
vòng phong tỏa và sẽ là những người đầu tiên trên đảo, nhưng