sao được. Nó rất khoẻ. Nó còn trẻ, mới có bốn mươi, và nó mới làm được
ba mươi năm. Kể ra, nó bắt đầu có sớm quá thật, nhưng mà nhà tôi mất. Nồi
hơi trong xưởng nhà tôi làm bị nổ. Bà bảo lúc ấy chúng tôi còn biết xoay xở
ra sao nữa? Nó lên mười nhưng nó khoẻ lắm. Khốn nạn, cái máy may đã
giết mất con tôi. Đúng như thế. Nó giết chết con bé, mặc dầu con bé làm
nhanh nhất xưởng. Tôi cứ nghĩ đến chuyện đó luôn, thành ra tôi biết. Vì thế
tôi không thể làm việc ở xưởng được. Cái máy may làm cho đầu óc tôi quay
cuồng lên. Lúc nào tôi cũng nghe thấy nó bảo: "Tao giết nó, tao giết nó!"
Và cái máy cứ kêu lên như thế suốt ngày. Tôi nghĩ đến con tôi, không tài
nào làm việc được nữa.
Đôi mắt già nua của bà cụ lại nhoà đi một lần nữa, và bà cụ phải lau
nước mắt trước khi tiếp tục khâu. Tôi nghe thấy đức Giám mục lật đật bước
lên cầu thang, liền mở cửa. Trông Người mới ngộ làm sao chứ? Người cõng
trên lưng một nửa túi than, bên trên có một tí củi thanh để nhóm lửa. Mặt
Người bám đầy những bụi than xuống góc phòng bên cạnh lò sưởi và lau
mồ hôi bằng một chiếc mùi-soa bằng vải thô. Tôi hầu như không tin vào
những giác quan của mình nữa. Đức Giám mục đen chùi chũi như một anh
phu than, bận một chiếc áo sơ-mi bằng vải bông rẻ tiền đứt cả khuy cổ và
một chiếc quần mặc ngoài của anh em lao công! Nghịch mắt nhất là chiếc
quần đã bợt cả đũng, dài lượt thượt xuống tận gót chân và giữ ở háng bằng
một chiếc thắt lưng da hẹp bản, y hệt những người lao công vẫn mặc.
Mặc dầu đức Giám mục có vẻ nóng bức, hai bàn tay sưng húp đáng
thương của bà cụ già đã cóng đi vì lạnh. Trước khi từ biệt bà cụ, đức Giám
mục đã nhóm xong lửa và tôi cũng đã gọt xong khoai tây cho vào luộc. Dần
dần về sau, tôi được biết thêm có nhiều trường hợp tương tự trường hợp của
bà cụ, và nhiều trường hợp còn thê thảm hơn, chìm trong những chỗ sâu
thẳm khủng khiếp của những dãy nhà bên láng giềng.
Chúng tôi về nhà thấy Ernest đang hốt hoảng vì sự vắng mặt của tôi. Sau
khi cái ngạc nhiên ban đầu của cuộc gặp mặt đã hết, đức Giám mục ngồi