mặc dầu có một hình ảnh rất đau đớn khắc sâu vào tâm trí tôi. Tiếng súng
do tên lính ngồi cạnh tôi bắn làm tôi mở choàng hai mắt, và tôi trông thấy
George Milford từ từ gục xuống hè đường. Tôi quen Milford từ hồi còn ở
phố Pell. Mặc dầu Milford đã chúi xuống, tên lính vẫn bắn. Milford gập
người lại làm đôi, ngã vật ra, hai tay hai chân dang rộng. Tên lính cười rộ
lên và chiếc ô-tô cứ thế phóng đi.
Việc sau nữa mà tôi biết là tôi đang ngủ mê mệt thì bị một người đàn
ông đi đi lại lại bên chỗ tôi nằm đánh thức dậy. Khuôn mặt người đó dài ra,
hóp vào và mồ hôi chảy ròng ròng từ trên trán xuống mũi. Hai tay người đó
ôm chặt lấy ngực và người đó bước đi thì máu lại rỏ xuống sàn. Người đó
mặc đồng phục của bọn lính đánh thuê. Từ bên ngoài, tiếng bom nổ như
thấm qua những bức tường kiên cố lọt vào. Tôi đang ở trong một toà nhà
lớn và toà nhà này đang mắc đánh nhau với một toà nhà khác.
Một bác sĩ vào để băng bó cho tên lính bị thương và lúc đó tôi biết là hai
giờ chiều. Tôi vẫn chưa bớt nhức đầu. Viên bác sĩ bèn ngừng tay một lát
cho tôi uống thuốc an thần. Tôi nằm ngủ lại, và tỉnh dậy thấy mình ở trên
nóc toà nhà lớn. Trận chiến đấu ở đây đã chấm dứt, và tôi đang xem khinh
khí cầu tấn công các pháo đài. Một người đưa tay ra ôm ngang người tôi.
Tôi có cảm giác rất tự nhiên rằng đó là Ernest. Tôi chỉ lấy làm lạ rằng tại
sao tóc và lông mày anh lại xém đi như thế.
Thật hoàn toàn do may rủi mà chúng tôi gặp nhau trong cái thành phố
khủng khiếp này. Trước đó, anh không ngờ một tí nào rằng tôi đã rời New
York, và khi đi qua chỗ tôi nằm ngủ, lúc đầu, anh cũng không ngờ lại là tôi.
Tôi không thấy thêm về công xã Chicago được bao nhiêu nữa. Sau khi xem
khinh khí cầu tấn công, Ernest đưa tôi xuống một phòng ở giữa toà nhà. Tôi
nằm đó ngủ suốt buổi chiều và đêm. Sang ngày thứ ba, tôi ở nguyên trong
nhà. Đến ngày thứ tư, Ernest được bọn chỉ huy cho nghỉ phép và cấp cho
một cái ô-tô. Chúng tôi bèn đi khỏi Chicago.