Không còn lúng túng trước ánh mắt như bốc lửa của vị sứ quân, lão lên
tiếng:
- Bẩm, nếu chỉ ngồi yên tại Đằng Châu này, sứ quân không thể tóm thâu
thiên hạ để dựng nghiệp đế vương. Thuộc hạ thấy cũng như chư tướng thấy
rằng tiến chiếm Bố Hải Khẩu là bước đầu cần thiết để sứ quân mở ra một
triều đại mới, nhất là trong cơ hội ngàn năm một thuở như lúc này.
Tiếp tục nhìn người thủ hạ, Phạm sứ quân hỏi:
- Cơ hội đó ra sao?
Giọng lão vệ tướng sôi nổi hơn:
- Bẩm, toàn bộ tinh binh Bố Hải Khẩu hiện đang theo động chủ Hoa Lư
tiến sâu vào Man Động. Lực lượng lưu lại giữ nhà bất quá không hơn một
ngàn quân lão nhược. Với uy võ của sứ quân và tinh thần phụ tử chi binh
của Đằng Châu ta, lực lượng đó khác nào trái trứng trước một tảng đá xanh.
Thuộc hạ tin chắc không quá nửa tuần trăng, trọn vùng đất từ bờ bắc Thanh
Quyết trở ra đã nằm trong tay ta. Khi đó, động chủ Hoa Lư có dẹp tan Man
Động cũng hết đường trở lui và lâm cảnh tứ bề thụ địch ngay giữa vùng đất
lạ đầy sơn lam chướng khí thì dù là thần nhân cũng khó tránh bại vong. Ta
chỉ cần vươn tay dài hơn chút nữa, bờ cõi Đằng Châu sẽ mở rộng tới chân
đèo Ba Dội, và cái thế vô địch của ta so với mọi vị sứ quân khác đã trở nên
rõ ràng. Vì thế, thuộc hạ nghĩ không còn cơ may nào lớn hơn lúc này để mở
cuộc nam chinh.
Một nụ cười lặng lẽ nở trên môi vị sứ quân.
Ánh mắt ông dịu xuống, nhưng ông tiếp tục hỏi:
- Ngươi thấy sao khi ta cho rằng không cần phải gây ra một cuộc chiến?
Giọng lão đanh lại:
- Bẩm, việc đó không cần với thuộc hạ nhưng rất cần với sứ quân.
- Tại sao?
- Thuộc hạ vốn là đứa ngu si nơi đồng ruộng may được kề cận bên sứ
quân hơn ba mươi năm thì tâm nguyện bình sinh đã thỏa. Nhưng sứ quân
không thể ngồi mãi ở đất Đằng Châu này nhìn ngày tháng trôi qua. Chỗ của