này là thời kỳ gian truân nhất đời chàng. Trốn vào đâu bây giờ? Trong sa
mạc không có rừng, núi, nhà cửa, mà hễ bắn một phát súng để giết con mồi
thì tiếng súng vang dội lên hàng chục cây số chung quanh, đốt một cành
cây để thui con dê thì khói bay lên cách năm cây số cũng trông thấy. Mà
nào có phải trốn một mình. Trên bốn chục người! Họ phải núp suốt ngày
sau những động cát, xa đường đi, nhịn ăn, nhịn uống, đêm xuống mới dám
bò đi kiếm nước hoặc chà là. Thủ hạ của chàng bất bình, thà chiến đấu rồi
chết chứ không chịu nổi một cuộc đời như vậy. Này nào chàng cũng phải
an ủi họ, nhắc lại lời thề đồng sinh đồng tử và ban đêm phải canh gát cho
họ ngủ. Các nhà cầm quyền Ryhad tưởng chàng đã chết vì đói khát nên
không đề phòng cẩn mật nữa.
Lúc đó chàng mới ra tay, lặng lẽ đêm đi, ngày nghỉ, tiến lên phương Bắc.
Khi cách Ryhad mười cây số, để một số người ở lại bên cạnh một giếng
nước với bầy lạc đà, bảo họ nếu hai mươi bốn gờ sau mà không được tin
tức gì của chàng thì coi chàng như chết rồi, và ai nấy tìm đường mà về
Koweit.
Rồi chàng dẫn ba chục thủ hạ tiến tới sát chân thành, đến một cây chà là, để
Mohammed ở lại với hơn hai chục người làm hậu thuẫn, dặn nếu trưa hôm
sau không có tin tức gì thì đại sự đã hỏng, mau mau rút lui đi: chỉ còn
chàng, Jilouy và sáu người nữa là leo vô thành, gõ cửa nhà một người quen
hỏi thăm tin tức, biết rằng viên thống đốc ở trong đồn Mamak với 24 tên
lính, mỗi buổi sáng ra cửa đồn khám ngựa một lần, còn tư dinh của ông ta
thì không có lính canh. Bọn Aziz leo tường vô được tư dinh, trói chặt vợ
viên thống đốc lại mà gia nhân không hay.
Sáng hôm sau, viên thống đốc vừa ra khỏi đồn để khám ngựa thì Aziz và
Alouy phóng lai đâm, trong khi sáu thủ hạ của chàng cản đường lính trong
đồn. Chỉ trong một giờ là đồn bị chiếm, viên thống đốc bị giết, những lính
sống sót bị cầm tù. Bên Aziz có hai thủ hạ thiệt mạng. Dân chúng Ryhad
hay tin đó, tự động đánh phá những đồn khác trong tỉnh. Tới giữa trưa,