của ông rồi.
Từ Livouvre ông lại quần đảo Ioniennes – lúc đó còn ở dưới bảo hộ của
Anh – để dò xét tình hình. Công chức Anh trong đảo hoan hô ông và những
dân Hi Lạp tản cư coi ông như một vị cứu tinh. Bất kỳ một người Hy Lạp
nào tự xưng là nhà cách mạng và quy tụ được độ hai chục đồng chí, lại yêu
cầu ông giúp tiền là ông giúp ngay. Chỉ trong mấy tuần, ông tặng họ hết
34.000 Anh bảng.
Ông sống ở làng Metaxata, giản dị như một người lính và thấy khoẻ mạnh
lên, vui vẻ lên. Ban ngày tiếp các địa biểu Hi Lạp, ban đêm dạo mát ở bờ
biển, nhìn về phía Hi Lạp. Lòng ông thật bình tĩnh và ông bắt đầu nhận
được thư của gia đình bên Anh. Ông dự một cuộc tấn công nhỏ ở Ichaque
nhưng không có kết quả. Một lần một y sĩ khen đời sống thanh bạch và tấm
lòng bác ái của ông, tỏ ý tiếc rằng ông không thờ Chúa. Ông hỏi: “Thế nào
mới là thờ Chúa? Như vậy chưa đủ ư?”. Đáp: “Chưa đủ. Còn phải quỳ
xuống và cầu nguyện nữa”. Ông mỉm cười: “Ông đòi hỏi tôi nhiều quá”.
Tình hình ở Hi Lạp vẫn còn mập mờ, thắng bại bất phân, mà các nhóm
nghĩa quân thiếu sự chỉ huy nhất trí.
Byron phân vân chưa biết nhóm nào. Cuối năm đó ông mới quyết định tặng
Mavrocordato một tàu chiến có đủ khí giới và binh lính. Nhờ sự giúp đỡ
đó, Mavrocordato thắng Thổ được mà tiến lại Missolonghi
và từ nơi
này phái người tới mời Byron lại làm cố vấn:
“Xin Ngài tới ngay đi, chúng tôi mong Ngài lắm. Dân chúng ở đây đòi
được gặp Ngài. Những lời khuyên của Ngài sẽ được dân tuân theo như lời
sấm truyền”.
Ở bên Anh đã có kẻ mỉa mai ông là lại quần đảo Ioniennes để nghỉ mát và
viết nốt tập thơ Don Juan. Sự thực, tập thơ này ông đã viết trước khi đi, mà