giấy về trước. Muốn kéo dài thì giờ, anh Hy rút gói thuốc trong túi ra mời
người này người nọ, lân la từ bàn nọ sang bàn kia. Bao thuốc đã hết mà anh
điệp viên chưa tìm ra được một tia sáng. Bỗng anh nghe cụ Tổ hỏi :
- Ông có biết ông Tây đang đi ngoài kia cùng ông xếp Hỏa Lò, tiến vào
phía « ghép » không ? Độ là cụ « Bích » đấy.
Cụ Bích ? Cái tên nghe quen quen.
Ai là người Bắc am hiểu cơ quan hành chánh thời bấy giờ đều cũng
thuộc câu vè « Tứ Hung » : « Nhất Đạc, nhì Ke, tam Be, tứ Bích ».
Đó là tên bốn nhân viên hành chánh cao cấp Pháp : Darles, Eckert,
Wintrebert, Brides. Bốn người này đã từng làm Đốc lý hay Công sứ (Tỉnh
trưởng) thuộc vào phái thực dân hạng nặng, biết nói tiếng « An Nam » và
biết ăn mắm tôm nữa ; đặc tánh khắt khe, độc ác của bốn « trự » ấy thì khỏi
phải nói ; dân chúng khiếp sợ, oán ghét họ mới gọi là « Tứ Hung » với câu
vè trên kia.
Cụ Tổ nhắc tên « Bích » ngụ ý bảo anh Hy đề phòng hay nên rút lui có
trật tự, kẻo mang tai bay họa gởi vì tên cáo gìa này. Song cái danh hiệu «
Bích » gợi lên cho anh Hy một tia sáng tò mò : Chính thằng cha Bích này
đã chủ tọa Hội đồng Đề hình xử vụ án Thái Nguyên năm trước đây. Nay nó
vào Hỏa Lò không phải là không có « đại sự ». Nó sẽ lập Hội đồng Đề hình
ở đây chăng ? Mà nếu có Hội đồng Đề hình thì chẳng phải là xử mấy anh
nấu rượu lậu !.
Anh Hy lui bước ra hành lang, chỗ có những kệ chứa đầy các hồ sơ cũ.
Anh làm như một công chức trong « ghép » đang sắp xếp hồ sơ. Anh cố giữ
bình tĩnh vì nếu có nét mặt đổi khác khi rủi mà Bích lại gần anh thì anh khó
mà tránh được vào sở Mật thám để bị tra tấn dã man.
May sao không có ai ra hành lang hết. Bích và xếp khám nói chuyện xì
xồ, anh Hy nghe lõm câu được câu không :