thế, khuyên vợ thế. Chị Tư cũng nghe mà vâng lời chồng. Nhưng đã có
nhiều hôm, chị Tư rất đỗi ngạc nhiên thấy chồng đi đâu về, lầm lầm giở
chứng ra uống một hai chén rượu (anh không hay uống rượu), uống rồi
chồng chị nằm thẳng cẳng ra đập đầu vào thành giường, đạp huỳnh huỵch
cả hai chân vào vách. Chị vợ không dám hỏi, nếu có đánh bạo mà hỏi thì
anh chỉ đáp:
- Đàn bà biết cái cóc gì! Mẹ kiếp chúng nó. Ông sống làm người, giờ đây
ông thế này thì ông chịu, nhưng rồi có lúc ông hơn chúng nó. Trời có đóng
cửa mãi ai đâu!”
Chị Tư chỉ biết lại chuyện nợ nần với lũ cường hào, chuyện ngôi thứ lôi
thôi gì đấy. Chị không muốn hỏi nhiều. Hỏi thì anh cũng đáp. Nhưng trước
khi nói, thể nào anh cũng mắng “Đàn bà biết cái cóc gì!” - “Ừ, tôi là đàn
bà!”. Lần nào bị mắng, chị chỉ nói gọn lỏn một câu như thế, rồi ngồi ắng
lặng. Anh Tư nghe vậy đã có lần ngẩn mặt ra nhìn vợ. Anh hiểu chị chỉ
định ngỏ cái ý phẫn uất của chị mà thôi.
- Này bố nó này, cái số tiền mình còn thiếu của ông bà Phán, giá mình
nói khéo mà xin, may ra được đấy.
Anh Tư lầm lỳ bước. Tính anh vậy, ai nói, ai hỏi gì, anh không đáp ngay
bao giờ. Để người ta đợi một lát, anh mới chặc lưỡi. Cái tật của anh là chặc
lưỡi. Chị Tư đã chế anh là con thạch sùng.
- Cái đó để còn xem ra sao chứ. Bu mày tưởng dễ lắm hẳn. Cái trò nhà
giàu, càng giàu có lại càng tham của.
Anh vừa nói đến đấy thì ở đằng chân trời có một làn khói đục vẩn lên.
Chị Tư rối rít giục chồng rảo cẳng.
Tầu đến ga, toa nào cũng chật. Khổ sở lắm, anh Tư mới thu xếp được
một chỗ cho chị vợ ngồi, còn anh thì đứng co ro giữa những bồ hàng. Chị