... Bây giờ đây, con người gan dạ, nghĩa khí như Quan Vân Trường ấy
chịu thua, chịu yếu trước cuộc đời. Ông tự nhốt mình vào căn phòng lúc
nào cửa cũng kín như bưng. Mùa đông, lò sưởi luôn luôn có lửa, ông ngồi
như pho tượng trên chiếc ghế nệm bọc da, đọc sách. Suốt ngày ông không
nói. Bất đắc dĩ phải sai tên đầy tớ việc gì, ông ra hiệu cho nó hiểu, hoặc chỉ
khẽ mấp máy môi. Ban đêm, ông ngồi đọc sách có khi gần sáng, chờ mỏi
mệt, ông ngả đầu ngủ thiếp đi một lúc. Rất sợ giấc ngủ đêm, ông chỉ ngủ
ngày độ vài giờ, vì ban đêm, ông bị ám ảnh bởi những mộng mị hãi hùng.
Ông thấy toàn những bóng ma, bóng người dữ tợn, quần áo tả tơi, đầu tóc
rối bù, hoặc bị lòi ruột, hoặc đầu lâu vỡ ra vì viên đạn, hoặc nằm quằn quại
trên vũng máu, xúm xít bám lấy chân ông mà lôi kéo, nhằm mình ông mà
cào, mà cắn, mà đâm... Hình như ông cũng hơi tin đó là vong hồn những
tên tướp cướp đã chết bởi tay ông trong ba năm làm việc.
Ông hơi tin như vậy, vì ông nhớ mang máng ông đã dùng, trong năm lần,
năm viên đạn để bắn trúng sọ năm tên cướp lợi hại dám kháng cự lại ông.
Ông còn nhớ mang máng đã sáu bẩy lần, ông chùi thanh mã tấu vào bãi cỏ
ngoài đồng, sau khi những tên cướp kẻ thì như con ếch bị chặt đầu chỉ đập
tay chân được mấy cái rồi rúc mình vào trong ruộng bùn mà chết; kẻ thì ôm
ruột cố chạy được một quãng đường, rồi không biết nó bị lăn ra chết bên
một bờ ao, trên một đoạn cầu tre bắc ngang sông, trong một quán nước giữa
đường, hay là cố bò về nhà nhìn vợ, nhìn con rồi mới chịu nguyền rủa ông
mà tắt thở...
Bà Hoàng nhiều lúc giữa đêm thấy ông giật mình, mở mắt nhìn thanh mã
tấu trên tường. Càng nhìn, mắt ông càng đỏ lên như tiết. Đôi lần, vài giọt lệ
rơi ra. Ông nghiến hai hàm răng kêu kèn kẹt, ông chống hai cánh tay yếu
đuối và run bần bật vào hai bên tay chiếc ghế bành, nhoai người về phía
trước, lảo đảo đứng lên như để vồ lấy thanh mã tấu, nhưng rồi ông lại gieo
người xuống ghế, nhắm nghiền mắt lại, da mặt xám tựa trầm.