hành lạc, tiếng cười, tiếng kêu, kéo dài cho đến sáng. Chả biết ở cõi bồng
lai về các đấu thủ có ngủ được không sau một đêm rượu bò ra chiếu.
Đúng hai giờ, toàn đội đã đủ mặt theo ông bầu lên bãi Măng Danh. Địch
thủ là đội bóng lê dương da màu của quân đội viễn chinh.
Đứng trước kẻ địch quá mạnh về chiến thuật, về sức khỏe, đội ta, mười
một “chiến sĩ” sau đêm trác táng rượu mạnh, xì ke không bảo nhau mà tự
bừng tỉnh cơn sa đọa, trở lại với bản năng Hạng Võ, đã xuất hiện giữa đấu
trường, chơi hiệp đầu cực kỳ hay. Gôn Văn Đức Nhuận trổ hết tài bắt bóng
nổi, cản bóng chìm, né tránh những đợt sóng xung phong rồi thì lấy thủ làm
công, trung phong, tả hữu, chỉ thiếu có gôn phải giữ khung thành, ào ạt như
giông tố kéo lên đè bẹp địch, uy hiếp địch. Ba chàng dũng sĩ hồi ấy là
Thông, Hối, Viễn được mệnh danh là ba chàng ngự lâm, chuyền bóng cho
nhau bật tường, sút tung lưới đội lê dương. Thủ môn đội Tây nổi tiếng là
Dereras tung người lên cao, xuống thấp như con khỉ độc trên rừng mà chịu
không cản được bóng chọc thủng lưới của bộ ba Thông, Hối, Viễn.
Đối phương rất sợ ba con gấu Thông, Hối, Viễn, còn sợ không kém một
quái kiệt tả biên là “Kế cụ ngả bàn đèn”. Có danh hiệu ấy là vì ông dắt
bóng đến góc phạt của đối phương, ông phải nằm ngả xuống sút vô lê, quả
bóng bay ngoắt nghéo, gôn không sao bắt được.
Cái thời xưa bóng đá thịnh hành đến vậy mà Tổng cục Bóng đá ít khi
treo cúp. Toàn là đá hữu nghị, được thua ăn ở cái bắt tay chặt chẽ hoặc lỏng
lẻo của nhau.
Nói đến bóng đá Hải Phòng, gọi là State Haiphonaise. Tài nghệ của đội
Cảng này cũng là mối gờm của các đội nổi danh Hà Nội.
Nếu Stade Hanoien có hậu vệ vững như bàn thạch là Văn Đức Vịnh (anh
thủ môn Văn Đức Nhuận) thì Stade Haiphonaise có hậu vệ là kiện tướng có
một không hai trong làng bóng Việt Nam thuở ấy. Đó là danh thủ công tử