Tôi tự hào vì bãi đất An Dương. Tôi tưởng tượng xưa kia chính bãi An
Dương này là bến Bình Than mà đại danh tướng Trần Quốc Tuấn cùng các
quan văn võ hội quân và họp bô lão xin ý kiến toàn dân hòa hay chiến.
Cờ chiến nhà Trần bình Nguyên Mông kéo đỏ bến nước Bình Than.
Ngựa hí, quân reo, bước đi rầm rập của các danh tướng Trần Khánh Dư,
Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng đã khua vang trời nước An Dương kín
đáo. Và cũng chính ở khúc sông Nhị Hà này, sau đó danh tướng Trần
Khánh Dư đã thủy chiến, chặn quân Nguyên, cướp hết lương thực. Nguyên
Mông đại bại, lưu lại mấy ngàn xác chết trên dòng sông Hồng đã đỏ lại pha
thêm máu đỏ.
Khúc sông mang dấu ấn lịch sử này, ngày nay không còn những đám
mây xây thành soi bóng nước vỗ bờ lau, không còn vang vọng tiếng thét
oai hùng của cậu bé Trần Quốc Toản vừa bóp nát trái cam vì tức giận lệnh
cấm ra quân của phụ hoàng, nhưng tiểu chiến tướng vẫn ra quân dưới lá cờ
thêu kim tuyến dòng chữ lớn: “Phá cường địch, báo hoàng ân”.
Bài ký ngắn ngủi này mang nặng nỗi quan hoài thắm thiết của tôi đối với
dải bãi bến phù sa An Dương kể từ ngày tôi cùng mấy anh em văn nghệ
Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Nguyệt Hồ, Viễn Khách -
sống ẩn náu ở đây ngót hai năm tránh Tây, tránh Nhật, nghe thiên hạ sự.
Thế rồi lại chia tay! Chiến sự bùng nổ vang trời. Người lên Việt Bắc, kẻ
vô Nam, kẻ về tề. Viết, vẫn viết, viết trước họng súng, đầu lê, lặng lẽ,
nghiến răng mang cái tị hiềm khó giải, tề nhân.
Tôi đã là tề nhân gần hai năm chui bờ rúc bụi, viết Đất, Xã Bèo, Người
của đất đồng thời viết cả trường thiên phóng sự về đời sống khốn nạn của
văn quan, võ tướng xã hội Sài Gòn, với nhan đề Xóm Rá (1953).
Viết xong Đất, Xã Bèo, tôi viết một cụm hai truyện dài Cầu Sương, Quán
Gió. Nội dung đề cập đến số phận hẩm hiu của người phụ nữ giai cấp tư