đêm mưa gió, không ngủ ngoài trời được, chúng lại kéo ùa vào mé hiên sau,
chiếm cứ chỗ nằm của lão. Còn rộng thì chúng cho lão nằm chung trên sập.
Chật quá, chúng lại đồng thanh quyết nghị hạ bệ lão xuống. Lão không
nghe, chúng cũng cứ lôi bừa xuống đất. Được cái là lão Bảy rất hiền lành.
Lão không giận lâu bao giờ. Lão chỉ điên tiết lên, trợn mắt phùng mang,
múa men la lối om sòm một lúc, để rồi lại cười hì hì với lũ trẻ. Và chừng
như lão cũng thích được chúng trêu chọc, phá phách như vậy. Lão thường
bảo với nhiều người :
- Lạ thật, chúng nghịch như quỷ phá nhà chay, vậy mà vắng chúng
nghe cũng buồn đó.
Lũ trẻ được thế, càng coi thường lão và phá phách già hơn. Chúng coi
thường không phải chỉ vì lão hiền lành, ít ỏi, dễ dãi, xuề xoà nhưng còn vì
cái bản tính đần độn của lão nữa. Lão dại dột ngớ ngẩn có tiếng. Trong tiệm
bất cứ người nào, từ ông chủ đến cô con gái hay cả bọn chiêu đãi viên đều
ăn húng ăn hiếp lão được cả. Cũng vì thế mà Thuận càng thấy lão tầm
thường hèn mọn quá. Hèn mọn hơn cả bọn chúng. Sự hiện diện của lão, tuy
trong gang tấc, vẫn luôn luôn bị mờ nhoà, quên lãng giữa cuộc sống rộn
ràng. Đối với Thuận, lão là một cái gì ngộ mắt, vui vui thế thôi. Có cũng
được, không cũng xong. Thật chẳng quan hệ chút nào.
Nhưng ngay từ cái buổi chiều, mà chiếc xe Hồng-thập-tự từ đâu sồng
sộc chạy tới, chở lão Bảy đi một cách hấp tấp vội vàng, giữa cái nhốn nháo
của đám đông quanh tiệm cà-phê, và những tiếng còi rú nghe đến rợn hồn.
Thuận vụt sực tỉnh để cảm thấy lão Bảy không phải là vô nghĩa lý như hắn
tưởng lâu nay. Cả buổi chiều hắn nghe nôn nao, xao xuyến, khắc khoải mãi
vì lão. Đến khi được tin lão chết, hắn lại càng bàng hoàng sửng sốt nhiều
hơn. Cứ mỗi lúc tạt vào mé hiên sau, Thuận lại thấy vắng vẻ khó chịu. Sự
cô đơn, trống trải bao vây mãi hắn. Càng về tối, mé hiên càng trở nên hoang
vắng, quạnh quẽ. Nhìn vào cái xó hiên lão Bảy thường ngồi hàng ngày, hắn
thấy như có cả một khoảng trống đến kỳ dị, một khoảng trống sâu thẳm, vô