tận. Hắn nghĩ không ra. Sau khi lão Bảy vừa được vào bệnh viện, ông
Chình đã tìm người thay thế lão ngay. Cái gã thế chân cho lão Bảy tuy
không thiện nghệ bằng, nhưng trẻ trung, lanh lợi và bặt thiệp hơn. Gã cười
nói bô bô luôn mồm. Với gã, cái lò rang đen kịt lại tiếp tục bốc cao lửa
ngọn, cái bếp thấp lại hừng hực than hồng, mé hiên sau lại sực nức cả mùi
cà-phê như cũ. Gã cũng ngồi vào chỗ ngồi của lão Bảy, cũng lặp lại gần y
hệt những cử động hàng ngày của lão. Nhưng vô ích. Mé hiên, dưới mắt
Thuận, vẫn cứ hoang vắng, quạnh quẽ. Cái khoảng trống vẫn cứ trống, vẫn
sâu, rỗng, lồ lộ trước mắt hắn một cách thê thảm, chừng như không có gì
chèn lấp lại cho kín được nữa. Đêm về, dưới ánh lửa ngọn nhảy nhót trong
lò rang, càng nhìn cái khoảng trống kỳ quặc ấy, lòng hắn càng buồn. Hắn
cảm thấy đời hắn như vừa mất một cái gì từ lâu đã giúp hắn nguôi ngoai
được nỗi bơ vơ cô độc mà hắn không hề hay biết. Hắn đâm ra thương nhớ
lão Bảy, cần sự gần gũi và có mặt của lão hơn bao giờ cả, hối tiếc về sự
hững hờ, lãnh đạm của hắn lâu nay. Sự hối tiếc này càng khiến hắn phải tơ
tưởng lão mãi không thôi, theo dõi dấu vết lão cho đến lúc không còn theo
được nữa. Sớm nay hắn tìm tới nhà xác, lò dò theo mãi cỗ quan để đưa tiễn
lão đến tận huyệt mả là vì vậy. Và thật khó mà nói cho bác Cẩm hiểu được
cái động cơ sâu xa, kỳ quặc ấy. Để trả lời, hắn chỉ biết ứa nước mắt, nhìn
vào nén hương đã hầu tàn ở một góc xe. Bác Cẩm thấy vậy, gật đầu :
- Đúng thế rồi phải không ? Tao đoán có sai đâu, mày cũng thuỷ chung
đó. Tao nghĩ người đời họ bạc bẽo cả. Lão Chình trước mắt đấy. Nhưng cứ
gì lão Chình. Thiên hạ phần đông thế cả mày ơi. Tao biết. Tao phải kéo
nhiều xác vô thừa nhận như thế này cũng là vì người đời họ bạc bẽo cả...
Lắm lúc bà con đấy, mà chúng cũng làm lơ nữa là lão Chình. Hừ ! Lão Bảy
thế mà có phúc. Lão tử tế với mày cũng đáng mà.
Thuận lắc đầu :
- Không phải. Lão đối với cháu cũng thường thôi. Cũng như người
khác thôi. Không thân lắm. Nhưng chẳng hiểu tại sao lão chết, cháu nghe