- Thôi, thằng cha này thế là nó điên thực sự rồi. Có lẽ nó gần chết.
Người sắp chết hay có những sự biến tính kỳ dị như vậy.
Và lão đã chết thật. Vì từ ngày hai mươi lăm đến ba mươi Tết, người ta
không thấy tăm dạng lão Biện mò về dưới làng, như thường lệ, để đổi chác
các thức lão cần dùng. Mãi vào buổi chiều ba mươi, trong màu vàng của
nắng xế, trên khu rừng ngay chỗ lão dựng lều, một đàn quạ đen lượn vòng,
sà thấp xuống và kêu lên những tiếng não nùng. Quạ lần lần tụ tập đến đông
quá, kêu ồn quá đến nỗi người trong xóm phải rởn tóc gáy và đâm ngờ.
Thằng Biện, con lão cũng đâm ngờ. Nó tróc vội con chó mực cùng chạy lên
trại. Và quả thực đúng y như sự phỏng đoán của nó, lão Biện đã chết. Lão
nằm chết cong queo từ lúc nào trên mảnh chiếu rách trong lều. Người lão
phù lên, ruồi kiến bu kín cả mình mẩy. Một mùi hôi thối xông lên nồng nặc
đến nhức đầu và nôn mửa.
Trong làng người ta cũng không cần đến sự khai báo và khám xét. Một
con người như lão Biện có chết thì cũng như một con gà hay một con chuột
chết vậy thôi. Người ta chỉ giục hai mẹ con thằng Biện phải lo chôn cất
ngay đi và cả hai mẹ con đã trù liệu bằng những kế hoạch rất giản dị. Trong
trại đã sẵn có trứng để chông đầu, sẵn gà, sẵn gạo để nấu một mâm cơm.
Hai mẹ con chỉ cần đem một ít vật ngang để đổi lấy hương vàng. Rồi cả hai,
mỗi người một chiếc xuổng, đào một cái hố khá sâu, ném lão xuống, lấp lão
lại. Thế là xong. Không cần chay tuần gì cả, cũng chả cần khóc lóc.
Chôn cất xong, hai mẹ con lần lượt thu, tóm, khuân vác đồ đạc của lão
về. Sau cái chết của lão, vợ con lão thừa hưởng thêm được : bốn ang bắp
hột, hai chục sét khoai, tám ô gạo, bảy cái kẹp heo, một con chó vàng, mười
con gà và ba con vịt. Thế là hết. Chỉ còn lại chiếc chiếu thì mụ Biện chê nó
rách và bẩn quá. Nhưng rồi cả hai mẹ con bàn đi tính lại, thấy bỏ cũng tiếc,
nên lại cuốn lấy đem về. Lúc vừa cuốn lên, mụ Biện bỗng kêu to :
- Này, cái gì thế này Biện ? Biện ? Cái gì thế ?