quen thuộc, một ngọn đèn toạ đăng, một cái bàn gỗ tạp và trên mươi em
thiếu niên, đang ngồi hoặc đứng. Lúc này, có lẽ chúng đang mong chờ vì là
tối thứ bảy. Cũng như tối thứ năm, tối nay chúng đang chờ. Chúng chờ hai
anh em Lợi và Lộc. Tôi biết rõ là chúng đang chờ. Không phải là vì lòng
ham học, mà còn vì cái lòng mến yêu, trìu mến hai người bạn trẻ của tôi.
Trước kia, khi chưa lên ở gần nhà tôi tại Nam Giao, Lợi và Lộc đã trọ
tại nhà một cụ già ở Cầu Đất, bà Tư, trong một xóm nghèo có nhiều em thất
học. Ở đây, có một số thiếu niên rất thông minh, nhưng vì gia đình túng
thiếu, chỉ theo học các lớp Bình dân học vụ rồi phải nghỉ. Hai anh em Lợi
thương tình, những lúc rảnh, thường khuyến khích bày vẽ thêm cho. Trẻ em
trong xóm, những đứa ham học thêm, tối nào cũng kéo đến nhà bà Tư.
Chúng quyến luyến Lợi và Lộc như anh ruột vậy. Cha mẹ chúng cũng hết
sức quý mến hai anh em nhà này. Về sau, vì cần ở gần trường, Lợi và Lộc
buộc lòng phải dời chỗ trọ. Không nỡ để cho đám thiếu niên này buồn khổ
và gián đoạn việc học hành, nên dầu ở xa, hai anh em Lợi vẫn thay phiên
nhau, mỗi tuần trở về với chúng hai đêm.
Đã mấy tháng nay, Lộc và Lợi không hề bỏ quên một đêm nào. Nếu có
việc gì cần thì Lợi lại qua năn nỉ nhờ tôi đi thế. Tiếp xúc đám thiếu niên
này, cũng như cha mẹ chúng mấy lần, tôi mới hiểu vì sao mà Lợi và Lộc
không nỡ rời bỏ chúng và không quản ngại khó nhọc như vậy. Tôi nhận
thấy được tất cả cái sức cố kết, cái không khí hoà vui dễ chịu giữa người
với người, khi người ta biết sống trong tinh thần xây dựng, yêu thương.
Cũng vì vậy mà khi nhớ đến đám trẻ em ở Cầu Đất, nghĩ đến lớp học đêm ở
nhà bà Tư, tôi thấy có cả một bổn phận đối với chúng cũng như với hai
người bạn vừa chết. Tôi phải báo cái tin này, cái tang đau đớn này với
chúng và cha mẹ chúng. Ở giữa cái đất phồn hoa rộn rịp, lạ cảnh lạ người,
đối với Lợi và Lộc, hai học sinh từ xa đến, tưởng không còn ai thân hơn là
đám trẻ em ở cái xóm nghèo kia. Nếu những giọt nước mắt chân thành quả