chẳng tha thiết, ngó ngàng gì đến công việc nhà. Nhiều khi Nguyễn đi biền
biệt suốt tuần hoặc nửa tháng trời mới chịu đáo lui. Có một bận, sau mấy
ngày vắng mặt, Nguyễn trở về với cái dáng thất thểu, bơ phờ, và khi bầy
chó săn của ông Chánh chạy ra sủa mừng, sẵn súng trong tay, Nguyễn nhắm
bắn ngay một phát. Một con chó trong bầy bị toạc mõm, văng cả hàm dưới,
ngã xuống giãy đành đạch giây lát rồi chết tươi giữa vũng máu.
Trước cảnh thương tâm ấy, Nguyễn thản nhiên đứng nhìn rồi cười lên
sằng sặc. Lại một hôm, trong lúc ngà ngà say, nhân cũng nói về chuyện đi
bắn, Nguyễn cười bảo Phương :
- Tôi hạ được rất nhiều nai, nhiều heo. Tôi bắn ít khi nhầm. Nhưng tôi
cứ thấy là tôi bị lạc đích mãi, tợ hồ tôi chưa hạ được cái tôi muốn bắn. Chỉ
có một lần dạo chơi ở cấm củi bên kia, tôi nhắm vào một cái đích ở trong
vườn này mà tôi tin chính là nó, nhưng lúc nhìn kỹ lại, tôi đâm hoảng. Vì
chính đấy là cậu tôi. May quá !
Nguyễn nói xong lại cười. Tiếng cười và những câu nói có vẻ mê sảng,
cuồng loạn ấy, tự dưng khiến Phương phải giật mình :
- Tại sao anh lại nói như vậy ?
- Cũng chả hiểu tại sao. Tôi cảm thấy như thế thôi. Thành thử tôi đi
bắn hoài. Cũng chả thiết gì heo nai đâu, nhưng bắn cho khỏi ngứa tay. Ở
nhà lúc nào tôi cũng nghe như muốn đập phá một cái gì.
Nguyễn lại cười nhìn Phương. Qua cái nhìn, Phương bỗng nhiên nhận
thấy chừng như động cơ thúc đẩy Nguyễn đi bắn chẳng phải chỉ là mối bất
hòa giữa anh ta với ông Chánh. Với nó còn có một cái gì lạ hơn, một cái gì
khiến Phương thoáng cảm một cách mơ hồ, không rõ rệt lắm, nhưng cũng
đủ làm cho hắn rùng mình lo ngại. Bích lại thở dài :
- Lạ lắm ! Cái chuyện đi săn, đi bắn của nhà cháu kể cũng lạ lắm. Khó
mà can gián nổi.