người là một bí ẩn đối với kẻ khác, hoàn toàn khép kín cứ như mỗi
người đang ngồi trong một cỗ xe riêng, dù là sáu hay sáu mươi ngựa
kéo, người này với người kia gần nhau gang tấc mà cách xa diệu vợi.
Người liên lạc cưỡi ngựa nước kiệu thong thả quay về, chốc chốc
lại dừng ở một tửu quán để làm một tợp nhưng vẫn luôn bảo trì sự
thanh tỉnh, kéo vành mũ vểnh lên, không che kín tầm mắt. Y có đôi
mắt rất hợp với chiếc mũ ấy, đôi mắt đen đặc không rõ hình dáng hay
màu sắc và lại quá sát gần nhau - cứ như cả hai đều sợ bị để lộ điều gì
đó nếu như chúng phải cách xa ra. Đôi mắt ấy ánh lên vẻ thâm hiểm
bên dưới chiếc mũ ba góc cũ kĩ trông giống chiếc ống nhổ ba cạnh,
bên trên chiếc khăn choàng che kín cằm và cổ họng, rủ dài tới tận đầu
gối. Mỗi lần dừng ngựa uống rượu, y chỉ đưa tay trái kéo khăn choàng
xuống lúc tay phải nâng cốc rượu lên môi; xong một tợp là kéo lên trở
lại.
− Không, không được, Jerry, - người liên lạc lải nhải một mình mãi
chuyện ấy trên lưng ngựa. - Xui cho mày rồi, Jerry! Mày, một người
nàm ăn nương thiện mà, chuyện này không hạp kiểu nàm của mày
đâu! Hồi sinh...! Hắn ta mà không say thì trời đánh ta đi!
Lời nhắn đó khiến y hoang mang tới mức nhiều lần phải lột mũ ra
gãi đầu. Ngoại trừ trên đỉnh đã hói xác xơ, tóc của y đen, cứng, dựng
bờm xờm khắp đầu và mọc dài xuống gần chạm cánh mũi to bè. Như
một tác phẩm của thợ rèn, nó tua tủa giống những gai thép cắm trên gờ
tường hơn là một mái tóc, ngay cả những người nhảy cừu giỏi nhất
cũng không dám vọt qua, coi đó như chướng ngại nguy hiểm nhất trần
đời.
Trong lúc y phi nước kiệu mang tin nhắn về chuyển cho người gác
đêm trong bốt canh trước cửa Ngân hàng Tellson gần cổng thành
Temple Bar, để người này chuyển tiếp cho thượng cấp ở bên trong,
những hồn bóng của đêm tối như hiện ra từ lời nhắn ấy; ngay cả con
ngựa của y có lẽ cũng thấy những hình thù hiển lộ từ thẳm sâu trong