Lối quanh lần bước theo phương thảo,
Cảnh lạ thừa nhàn ngắm thúy vi.
Bên chốn hương đài ngồi nghỉ mệt,
Chiều rêu ngất ngưởng, tóc ly phi.
Bài thứ 3
Đỉnh xưa khắc chữ “Vĩnh Hòa niên”132,
Bên mé biển xanh, mở cửa chiền.
Mặt đất mù sa non dợn sóng,
Lưng trời mây bủa nóc như thuyền.
Tre xanh nghìn xóm màu thu rạng,
Khe đá một bầu bóng nhật xuyên.
Ham ngắm dáng chiều bên đỉnh núi,
Phiên tăng lễ bái thỉnh khô thiền133.
Bài thứ 4
Non xanh muôn lớp dạo chơi rong,
Rừng suối liên miên nẻo chẳng cùng.
Nhà cỏ nửa rèm mưa lún phún,
Thúy vi bốn mặt khói mông lung.
Biển khơi man mác vừng mây bủa,
Gió núi lao xao ngọn cỏ rung.
Thắng cảnh ngày nay ghi mấy nét,
Đăng lâm biết có dịp nào không.
Khuê Phong nằm dô ra bờ biển, thành thử ngó phía nào cũng thấy
biển; phía tay phải một dải núi xanh tức Ngãi Lãnh, theo đường núi từ
đông bắc đi vào đến cửa Hội An; thuyền sẽ đi đường tắt. Mấy hòn núi
đều cao chất ngất, những viên đá trơn như hình búi tó (búi tóc) nằm rải
rác ở chân núi, hơi giống Thất Tinh nham ở Quảng Đông. Giám quan
chỉ tay bảo rằng: “Đấy là núi Tam Thai, ngôi chùa trong ấy tức là đạo
trường của Quả Hoằng quốc sư. Núi ấy có nhiều nham động như cửa
ngõ, như cửa sổ, làm đường hang, làm nhà, làm phòng, như hình vung
nồi, như hình chuồng câu, v.v. thảy đều linh lung khoáng đãng; nằm
ngồi được, ngồi gảy đàn, ngâm thơ được. Mỗi lúc nói lên, có tiếng