thuyền rất tiện lợi vô cùng, có thể lấy sức chèo lướt sóng, dầu sóng
dóc cũng phăng tới rất êm.
Chuyển thuyền ra mũi cát, một chốc đã đến chỗ thuyền lương
đậu, neo lại. Hai bên bờ, nhà cửa đông đúc, người đi đường xôn xao,
kẻ gánh người gồng, người ta đã đi chợ sáng. Một chiềc hồng thuyền
đậu trước ở đó, quan trấn thủ Hội An đến yết kiến, cung đốn bữa cơm
sáng rất tươm tất. Mới biết dọc đường có người lo cung đốn cơm nước
đúng theo ngày giờ đã định, chẳng chút sai chậy. Chúng ta khỏi lo
thiếu đồ nấu nướng, nhưng thương hại quân lính khó nhọc, cũng nhân
đó, thấy lệnh vua cứng rắn như sắt, chẳng ai dám đơn sai. Quay lại bảo
kẻ tùy tùng rằng: “Đức tu mỏng kém, làm sao đương nổi cúng dưỡng
thế ấy cho khỏi chiết phước”.
Giới tử tập họp ở đó và tứ chúng thiện nam tín nữ đều đem cau
trầu hoa quả đồ ăn đến dâng lễ.
Cơm nước xong, trống đồng lại nổi lệnh. Các quân nhân đương
thổi cơm trên bờ, có kẻ đương ăn, có kẻ chưa ăn, cũng có kẻ đương
nấu hoặc đương vò gạo, đều dẹp lại, vội vàng chạy đến mở dây
thuyền. Mõ đánh giữa dòng, các thuyền khi đi hàng dọc, khi sắp hàng
ngang, khi đi thẳng một hàng, khi chia thành hai dãy; ba quân miệng
hò khoan, chân giậm ván, thảy đều đúng nhịp, rập ràng.
Gió thổi hiu hiu, nước xanh lẻo lẻo137, rừng tre thâm thẩm, bãi
cát sáng ngời; đã vui mừng gió thuận buồm xuôi, lại hớn hở gần ngày
về nước, tấc lòng khoan khoái, biết lấy chi cân. Thừa hứng làm bài thơ
tả cảnh: “Đêm thu vượt biển, sáng đến Hội An”.
Bài thứ 1
Thu về Hải quốc, nhớ hương quan,
Đêm vắng buông thuyền dạ chứa chan.
Thơ tứ nảy sinh trong hiện cảnh,
Tiếng người nghe nói giữa không gian.
Sao thưa lác đác gieo lòng biển,
Đèn chớp xa xa sáng đỉnh ngàn.
Cửa Hội An đâu? Còn dọ hỏi,