xương cứng chưa gãy mà thôi. Hằng ngày đương chống chọi với ma
bệnh, cũng tưởng mượn bệnh để qua loa cho rồi việc, ngờ đâu bệnh
chẳng thành bệnh, việc chẳng thành việc, ngơ ngơ ngất ngất, nghĩ
cũng buồn cười.
Nay được ngài hỏi đến, xin cho thư thả ít ngày, hết bệnh sẽ ra
hầu. Trong bụng còn bao nhiêu chuyện muốn nói, thư chẳng hết lời,
xin chờ ngày gặp mặt”.
Thư gửi Thiều Dương hầu, vương huynh thứ ba
“Đại sĩ đạo thể không được yên. Lão tăng cũng đương đau,
không thể bay đến hầu thăm, trong lòng rất lấy làm ân hận. Người
ngoài cuộc chẳng có gì hệ lụy, chỉ thiên giai tri kỷ, đạo nghĩa ưa nhau,
chưa được hầu thăm trước giường, làm sao khỏi ngùi ngùi tấc dạ.
Vừa tiếp lai thư, mừng rỡ khôn xiết. Vâng lời dạy rằng: “Tình đời
ấm lạnh, biến đổi chẳng thường”. Xưa nay đều than như vậy, nhưng
biết đâu cả thế giới chỉ có một chữ lạnh, làm gì có chữ ấm, điều đó
Hiền hầu đã biết rõ, khá phát một trận cười dài.
Trong ngày thọ đản, lão tăng lú lẫn, không ra chúc mừng, thật có
lỗi rất lớn.
Gần đây, khách song vừa ốm dậy, chấm mực vẽ được một bức
Thương tùng điệp chướng (cây tùng xanh trong rặng núi), đề từ một
câu: “Chỉ tại thử sơn trung, vân thâm bất tri xứ” (chỉ ở trong núi ấy,
mây kín biết nơi nào), xin gửi dâng để hình dung dáng điệu cổ kính
của Hiền hầu; tuy chẳng tả hết cao hoài, cũng chút tỏ bản sắc của lão
tăng vậy. Chẳng biết có xứng đáng với tính cao đức tốt hay chăng. Lão
thảo đôi lời, ý riêng khôn tỏ”.
Ngày nọ ốm dậy, đương ngồi ở nhà cỏ, có khách ghé qua hỏi
rằng: “Mùa xuân sinh, mùa hạ lớn, mùa thu thâu liễm, mùa đông tàn
tạ, ấy là khí hậu chánh của bốn mùa. Chỉ có nước Đại Việt trái hẳn,
thu đông mưa gió, muôn vật tốt tươi, đến xuân hạ lại khô héo hết, tại
cứ sao vậy?”. Ta trả lời rằng: “Trời đất rất lớn, khó lấy danh từ để chỉ
rõ, đại ước chỉ một khí xoay vần chẳng nghỉ, chẳng có thu đông riêng
biệt, cũng chẳng có khí hậu chánh với bất chánh khác nhau; chẳng qua