xả buồm, mọi người đứng về phía trên gió, ba chiếc thuyền con và
mấy trăm người lôi kéo, thuyền vẫn chẳng nhúc nhích chút nào.
Ta có làm phòng sẵn bốn cây cờ nhỏ, trên mỗi lá cờ, phía trên đề
10 chữ: Ngô bỉnh Thích Ca Vô thượng Pháp Vương tuệ mạng
吾秉釋
迦無上法王慧命, phía dưới, lá thứ nhất viết bốn chữ: Đại vũ tạm chỉ
大雨暫止; lá thứ nhì viết: Thuận phong tương tống 順風相送; lá thứ
ba viết: Chư thần ủng hộ
諸神擁護; lá thứ tư viết:Long Vương miễn
triều
龍王免朝. Thấy thế nguy, ta vội bảo lấy cây cờ Chư thần ủng hộ
cắm lên; cờ vừa trương ra, tức thì bánh lái rơi xuống, thuyền trở lại
thăng bằng, thực chẳng phải sức người làm được vậy. Xét chỗ có tiếng
ầm hồi nãy, thấy miếng ván giáp đà (phụ bánh lái) bị gãy, vĩ lư (chỗ xỏ
bánh lái) cũng hơi xé nứt. Tức thì tu bổ lại. Nhờ dịp ngừng thuyền
chốc lát, được ngắm xem hình thế nơi đây: Đối diện gò Hổ Đầu, hai
bên hai hòn núi trọc, phục xuống nhô lên; hai viên đá Đại hổ, Tiểu hổ
chờn vờn giữa dòng nước chảy, như hình cọp ngồi xổm ngẩng đầu lên,
sắc đá cháy đen như màu sắt. Bên tả ngạn hòn Tiểu hổ có một pháo
đài quay mặt ra biển, tựa trên sườn núi, tục gọi A Nương hài (chiếc
giày cô nàng), vì hình giống chiếc hài vậy. Trong lùm cây, thẳng bìa
dãy núi nhỏ, thấy có khói lửa, cư dân toàn là phường chài và sở làm
muối, không có dân cày. Những nơi cao hiểm đều có đặt đài canh gác.
Chỗ eo núi dòm ra biển, tức là cửa Áo Môn vậy. Nhơn làm hai bài thơ
thất ngôn, tả cảnh Hổ Môn vọng hải như sau:
Bài thứ 1
Bạch mã cờ thiêng giải bóng tà,
Rắn rồng lớp lớp ruổi phong ba.
Không cần gương nguyệt thâu đêm sáng,
Khá cỡi bè tiên khắp xứ qua.
Trời thấy có sao chia phân dã,
Đất nhìn không chỗ biết Trung Hoa.
Lâu thuyền32 chuyện cũ dường trong mộng,
Than tiếc nghìn xưa sứ Hán gia33.
Bài thứ 2