Rong reng giáp sắt tiếng xa đưa,
Ngọc phá châu chìm cảnh xác xơ.
Gió cuốn lưng trời non đổ sụp,
Sóng xao mặt biển trống vang khua.
Dấu xưa thành khuyết chìm mây khói,
Chợ quỷ lâu đài bóng ảo mờ34.
Kìa biển Linh Đinh35, non Lỗ Mạn36,
Bảy Châu37 ngoài cõi biết đâu thưa.
Đậu thuyền lại. Nửa đêm, bỗng gió bốc thổi mạnh, sóng bổ ầm
ầm; dây neo gần đứt, thủy thủ sợ hãi không dám xuống tam bản để
gieo chiếc neo thứ hai, nhưng bị chúng rầy mắng, sợ phải đi xuống,
may thuyền lại được hơi yên. Nghĩ bọn chúng, công thuê tiền mướn
chẳng bao nhiêu, mà liều thân sống chết, coi sinh mạng như phù du;
trông đời những kẻ tham phú quý, chịu nguy cơ, thì cũng như bọn
thủy công kia mà thôi vậy.
Gần sáng, mưa gió đầy trời, ta bảo đem cây cờ Đại vũ tạm chỉ
dựng lên. Bỗng chốc, trời quang mây tạnh, bèn cho thuyền qua Hổ
Môn. Có những đống đá lúc nhúc thẳng bãi cát như hình bầy chó. Một
lát có một người ngồi thuyền con đi đến, tức Công sai Việt hải quan ra
thâu thuế. Đậu thuyền chỉnh đốn lại mọi việc. Chèo thuyền nhỏ vào
khe núi lấy nước ngọt, các thùng nước đều đầy mặp38. Cho hai chiếc
thuyền dẫn lộ trở lại, thuê một chiếc xuồng con chở nước ra thuyền.
Lại trương buồm chạy, trên mặt nước còn giăng mấy lớp núi, ra mãi
chưa hết. Cho biết Đông Việt là một nơi hình thắng, cửa biển dân cư
đông đúc, giàu có là phải lắm.
Đến chiều tối, neo thuyền trước núi Ô Trư. Trên núi có một thứ
trà, mọc tự nhiên chẳng ai trồng, có thể dùng chữa lành bệnh sốt rét,
một mối lợi của người đánh cá xứ này. Nước xanh biếc, bạn thuyền
dùng dây gai cột chì dò mức sâu cạn. Có một thứ rêu xanh dài hàng
thước, quấn vào trên dây, thứ rêu ấy dùng làm rau, mùi hơi tanh mặn,
ăn được. Cá nược đi từng bầy, hình giống heo, sắc trắng, nổi lên lặn