lại càng phấn phát; như thế mới thấy lòng kiên quyết của học nhơn
vậy.
Nếu Diệc Nhĩ từ nay có chí hướng kiên quyết, nguyện lực chơn
thành, dụng tâm trong 4, 5 năm, thì khó gì chẳng thông đạt đạo lý,
khai thông chướng ngại. Người học đạo sợ nhất là tự dối mình; tự dối
mình thì ý chẳng thành thì tâm chẳng chánh, tâm chẳng chánh thì nghe
tiếng chú tâm theo tiếng, thấy sắc chú tâm theo sắc, tâm chú tùy theo
ngoại cảnh, đến đỗi “tâm bất tại yên”, xem mà chẳng thấy, lắng mà
chẳng nghe, chú cảnh sanh tâm, tâm chẳng còn tự tại, bị thanh sắc có
không sử dụng, dụng tâm ở “có không” cũng chẳng biết, dụng tâm ở
“không có” cũng chẳng hay. Chỉ bao giờ giữ được đừng cho tâm bị
lưu chú, mà lưu trú cũng không trở ngại; chú không trú vào đâu, mới
thấy thường trú; chơn tâm hư mà tịch, linh mà sáng, hay chiếu mọi vật
mà chẳng bị mọi vật lấp che.
Thông suốt hơn người mới làm nên đấng trượng phu hơn người
vậy. Đến chỗ đó mới biết phát tâm học đạo là người cha sinh ra ta,
tham thiền ngộ đạo là ông thầy dạy cho ta nên và chí nguyện chẳng
đổi là người bạn giúp ích cho ta vậy. Xem lại phụ sư bằng hữu chẳng
phải ai khác, đều ở cả trong một nhà của ta; đại gia vỗ tay cả cười reo
lên rằng: “Như thế mới chẳng phụ tấm thân nam tử, một phen ra đời”,
khiến lão tăng cũng tự thẹn vậy”.
Thư gửi cho Đại Việt Quốc hữu Thừa tướng Tống công
“Năm ngoái, mông ơn hạ cố, được bái lãnh huệ lộc hai lần. Từ
ấy, về sau tin tức vẫn thông, nhưng ít có dịp bái yết. Mới đây, nhơn dịp
chúc mừng năm mới, được lên long môn, cúi mông khoản tiếp ân cần,
đủ thấy minh công nhã ý hư hoài196, chẳng kém lòng đãi sĩ của Chu
công ngày trước. Trong lúc trò chuyện, minh công lấy tư cách một vị
Quốc triều Tể phụ, đứng đầu nhơn dân, lấy việc tăng già có nhiều
người hỗn loạn làm lo; minh công nghĩ rằng, muốn hộ sinh cần phải
dùng sát, cần phải cuốc hết cỏ dại, lúa tốt mới có thể mọc lên; điều đó
lại càng thấy minh công quả là thành vàng ao nóng của pháp môn,
lòng hộ đạo hùng dũng phi thường, nếu chẳng phải người tu hành kiếp