kiến, đã khoe khoang cao viễn; mới trèo lên mô đất, đã tưởng vượt qua
núi Thái Hàng, nếu thấy Họa Sơn cao vút tầng mây, chắc thế nào cũng
ngửa mặt thở dài, bước lui cho mau vậy. Xưa Hàn Xương Lê tự phụ là
tâm cao khí mạnh, một lần trèo lên thang mây núi Họa Sơn, ngó
xuống, quáng mắt hết hồn, phát cuồng la khóc, viết thư quăng xuống
từ biệt người nhà. Quan huyện sở tại phái kiếm đủ mọi cách mới đem
xuống được. Than ôi, Xương Lê bài xích Phật Lão, có tài văn chương,
làm sư biểu cho văn nhân thời ấy; sinh bình vị trí, tự đặt cao trên đỉnh
Họa Sơn; thế mà mới lên Họa Sơn, đã hồn bay mắt nhóa, sinh bình vị
trí nay ở đâu? Bởi vì từ trước chỉ lấy ý thức ước lượng, chưa từng đi
đến tận chỗ, nên khinh đời nói dóc, vậy thôi.
Đã làm con cháu Phật Tổ, nên kiên tâm tự nguyện mở giác lộ cho
người đời; phá ám khai mê, phản tà quy chánh, há việc nhỏ mọn hay
sao. Nên nghĩ vườn Phật xuân tàn, sân chùa thu muộn, trong buổi pháp
môn liêu lạc, há nên lấy ngoa truyền ngoa; khiến khắp nước tăng
nhơn, chẳng biết ra đời học đạo là cái gì, cạc cạc ù ù trong làng túy
mộng.
Lão tăng chẳng nỡ làm thinh ngồi ngó, nên chẳng tránh nghiệp
miệng, nói thẳng vài lời.
Nay bố cáo.
Nước Đại Việt, phong thổ khí hậu, đại ước khí âm thịnh, khí
dương suy. Nghiệm chứng: muôn vật phát sinh về thu đông, làm việc
dùng ban đêm, con trai thông minh không bằng con gái. Hằng năm
xuân hạ thường khô hạn, mùa hạ mặt trời đứng bóng nóng như lửa
đốt; đất đỏ nghìn dặm, cây cỏ cháy khô. Vì ta có kẻ tùy tùng ăn đông,
nên quốc sư thường lấy sự thiếu rau làm lo.
Trong nước tả, hữu Thừa tướng, Tứ đại đồn dinh, Quốc nguyên
lão Đông Triều hầu, Học sĩ Hào Đức hầu, Vương huynh Lệ Truyền
hầu, Thiều Dương hầu, các vị đại lão ấy thường cùng ta tiếp kiến,
nghe ta ở Trung Hoa có cử hành việc bàn gió sấm và cầu mưa, muốn
tâu với nhà vua thỉnh ta cầu một đàn.