sinh muôn vật, cho nên người xưa bảo rằng: “Ma ha bát nhã là tán
dương sự rộng lớn của trí tuệ”, chẳng phải lấy Ma ha làm bản thể
Chân như. Như thế, chẳng là “trên đầu đặt thêm một cái đầu”, tính và
thể há có hai cái? Sai một ly đi một dặm, ta trước sau chẳng chịu uốn
mình chịu cho chữ Ma ha nguyệt là thỏa đáng. Nếu bảo làm thơ chỉ
cốt ý, chẳng cần xét lời, chỉ nghĩ cái lớn, chẳng cần cái nhỏ mọn, sao
chẳng xem trong bầu vũ trụ, không không sắc sắc, có một cái gì bố trí
chẳng tinh tường? Nhưng đó cũng chỉ cử những điều khá biết mà nói,
chưa tiện bàn đến việc sâu sắc. Bài của ngài gửi đến là thơ, thơ thì nói
chuyện thơ, cũng khá nhơn thơ mà nói chuyện thiền; lìa thơ mà nói
chuyện thiền là chẳng khá nói thơ, càng chẳng khá nói thiền mà nói
thơđược sao?
Bài thơ họa vần, chữ chữ quý như châu ngọc, tôi được học thêm
rất nhiều. Chỉ câu thứ tư có hai chữ Kinh tiếp (chèo sách
經楫). Lão
tăng học ít, không biết xuất tự kinh điển nào. Nếu dùng điển trong bài
luận của Tán Nghi có câu rằng: “Kinh chế vị am, như châu vô tiếp”
(chưa hiểu phép kinh, như thuyền không lái), câu ấy bàn phép kinh,
mướn lái thuyền làm ví dụ; nếu lấy hai chữ kinh tiếp dùng liền nhau,
thì làm lụy cho thơmà cũng làm lụy cho bài luận của Tán Nghi nữa.
Hai lẽ ấy đều không thể hiểu rõ. Hoặc giả dùng điển ở câu “Thí
bỉ Kinh châu, chưng đồ tiếp chi” (Ví như chiếc thuyền trên sông Kinh,
trai bạn chèo chống), thì chữ Kinh
涇 nên viết ba chấm thủy (氵), chứ
không viết theo bộ mịch (
糸), không biết có phải vậy không, xin minh
công chỉ giáo cho.
Lời nói dông dài chỉ làm rờm tai bậc cao minh, chẳng qua muốn
tỏ hết ý kiến quê mùa, hầu đáp ơn quốc sĩ tri ngộ mà thôi. Sau này xin
minh công lưu ý tra cứu sách xưa, hầu thứ lỗi lão tăng già miệng. Biết
minh công rộng lượng, chẳng để ý chấp trách, muốn được nghe thêm
nhiều điều dạy bảo quý hóa hơn.
Giới đàn gần đến ngày, chẳng bao lâu sẽ được gặp mặt. Nay xin
họa lại nguyên vận hai bài, mong nhờ phủ chánh90.
Bài 1