tay đe miệng chỉ, kẻ đương sự, tức khắc hiểu ý nghe lời. Cũng có kẻ
bình thời trí thức cũng khá, nhưng vì oai đức không đầy đủ, nên vừa
bước lên Bửu tọa, đã mất hết tinh thần, nói chẳng ra lời. Việc Trời
Phật cúng dưỡng, đại chúng lễ bái, đâu phải việc nhỏ mọn làm chơi”.
Quốc vương nghe nói hết giận.
Ngồi nói chuyện đến quá ngọ, muốn ở lại xem truyền giới, quốc
cậu giục hai ba lần, mới đứng dậy, day lại bảo rằng: “Đệ tử từ bé nghe
hai chữ Phật pháp đã sinh lòng kính ngưỡng, mỗi lúc gặp tu sĩ áo lam,
tức thì hoan hỷ.
Chẳng biết kiếp trước là ai? Làm phúc nghiệp gì? Mà ngày nay
sinh ra làm vua ở đây? Xin tôn sư chỉ điểm cho biết, hầu chẳng quên
nghiệp trước, đội đức từ bi vô lượng”. Nói rồi từ giã ra về. Nhơn tẩu
bút viết bức thư sau đây báo thị.
Vốn muốn làm mặt lạ, chuyện trò chút đỉnh “xuân phong khách
sáo” vậy thôi. Nay thấy mới mẻ tươi vui, cảm có một phen sinh thú.
Thoạt hỏi: “Chẳng biết kiếp trước, nguyên là người nào”, thực là
một câu hỏi rất đột ngột, “Khúc trọn người đâu vắng, trên sông một
núi xanh”: Nếu ta đem hết tình tệ trong ấy nói cho nghe, chi cho khỏi
lấy làm lạ tai lắm vậy. Chẳng thế, sao lai lịch của mình mà lại chẳng
biết, há đã bị hai chữ phú quý, kết thành một khối đen dày ba thước,
che lấp trước mắt rồi sao? Đến đỗi gốc cũ nguồn xưa, toàn bị cách âm
che tối.
Chẳng thấy Tô Đông Pha tự biết mình là hậu thân của Ngũ Tổ
Giới, làm câu thơ rằng: “Đời trước Đức Vân nay là ta, mường tượng
còn nhớ Diệu Cao Đài”93. Đông Pha cũng là người trong công danh
phú quý, sao chẳng bị cách âm che tối. Phàm những người ngôi cao
tước lớn, quyền cao lộc trọng trong thiên hạ, đều là những người kiếp
trước tu hành, ngồi thủng mấy chiếc bồ đoàn, mà chẳng thành chính
quả; chỉ vì lòng đạo có lúc gián đoạn, lòng trần chưa được rửa sạch, lỡ
chân một bước, chuyển niệm sa vào lưới đời.
Rồi có kẻ xuôi gió thẳng buồm, nguyện lực không bền, công phu
thiếu sót, thay hình đổi lốt, quên cả bản lai; càng ngày càng xa, dần