trả cái giá nào đó chứ. Tôi nấy một chai whisky, một đôi giày tươm tất và
hai mươi bảng. Tôi đã cố đòi thêm nhưng họ trở nên cáu tiết và tôi nghĩ đã
đến núc bỏ chạy. Đấy có phải kẻ cậu đang tìm không?”
McLoughlin gật đâu. “Nghe có vẻ giống. Ông có thể miêu tả ông ta được
không?”
Wally nhăn trán. “Tầm năm mươi tuổi, béo, tóc xám, có đôi chân quá ẻo
nả so với một người đàn ông. Đôi giày họ đưa tôi thì chật ních.”
“Người phụ nữ trông thế nào?”
“Nhỏ thó như chuột, mắt buồn bã, nhưng giời biết, bà ta cáu kỉnh nắm.
Quật vào cả người tôi nẫn não chồng vì dám gây ồn ĩ.” Lão đột nhiên trở
nên suy tư, lắc đầu. “Mà có phải vậy đâu. Chúng tôi thì thào với nhau thôi
mà. Đúng nà hai kẻ khùng.”
McLoughlin hớn hở. Tóm được bà rồi, bà Thompson, anh thầm nghĩ.
“Rồi sau đó ông đi đâu?”
Wally lộ vẻ nghĩ ngợi. “Có câu châm ngôn này, con giai. Con chim trong
tay ta đáng giá gấp đôi con chim trong bụi rậm. Trời ngừng mưa nhưng tôi
có cảm giác rồi sẽ có một cơn bão nữa. Tôi đã cố kiết để đòi một chai
whisky nhưng nại chẳng có chỗ nào thoải mái để uống cả. Nếu đi tiếp, chưa
chắc đã tìm được nơi khô ráo để qua đêm. Nên tôi quay nại cái hang hôm
trước và qua đêm ở đó.” Lão dò xét McLoughlin qua khoé mắt. “Ngày hôm
sau, tôi nghĩ mình có vài đồng trong túi rồi và đã chả có gì bỏ bụng nhiều
ngày giời, nên tôi đi thẳng đến Sinverborne. Trên đường ghé một quán cà
phê cũng được…”
“Ông có bỏ lại thứ gì không?” McLoughlin chen ngang.
“Ví dụ?” Lão già the thé hỏi.
“Đôi giày chẳng hạn?”
“Đá chúng vào rừng,” Wally khinh khinh nói. “Thứ chết tiệt đó nằm
chân tôi đau nhức. Đó chính nà bài học kinh nghiệm đấy. Một tên trai trẻ
hẳn sẽ ném đôi giày cũ trước cả khi có giày mới. Rồi gã sẽ phải chịu đau
đớn khổ sở rất nâu cho đến khi tìm được đôi giày mới đó.”