lang thang núp trong kho. Ông ấy ra đó tìm chổi sơn và vấp phải một mớ
quần áo cũ rách rưới sau vài cái hộp cũ. Tưởng tượng mà xem, ông ấy ngạc
nhiên cỡ nào khi cái mớ đó biết nói.”
Lời nói khá thuyết phục khiến McLoughlin đột nhiên thấy nghi ngờ bản
thân. Liệu anh có quá cả tin vào một lão già vốn tự thú nhận rằng lúc nào
mình cũng trong tình trạng say xỉn hay không? “Wally kể lúc lão vào kho
nhà bà thì trời đang mưa. Tôi đã kiểm tra với trạm khí tượng địa phương và
họ cho biết không có cơn mưa nào vào thứ Tư ngày 24 tháng Năm cả. Cơn
bão bắt đầu hai ngày sau đó và kéo dài ba ngày mới dứt hẳn.”
“Người đàn ông tội nghiệp,” bà Thompson lẩm bẩm. “Bấy giờ tôi đã bảo
Daniel rằng chúng tôi nên thử đưa lão đến chỗ bác sĩ. Lão say khướt và lẩn
thẩn. Cậu biết không, lão đã hỏi tôi có phải em gái của lão không, tưởng
rằng cuối cùng bà em cũng chịu đi tìm lão.”
“Nhưng bà Thompson ạ,” Walsh tỏ ra ngạc nhiên thấy rõ. “Nếu lão say
khướt như bà nói, thì vì sao bà còn cho lão một chai whisky? Chẳng phải
bà cũng thấy vấn đề của lão là gì hay sao?”
Bà Thompson ngước mắt nhìn trần nhà. “Lão cầu xin chúng tôi trong
nước mắt. Nếu từ chối thì chúng tôi còn ra gì nữa? Không đánh giá người
khác, thì bản thân mình cũng sẽ không bị đánh giá. Nếu người đàn ông tội
nghiệp ấy muốn chết dần chết mòn bằng sâu rượu, thì tôi cũng không có
quyền gì phán xét.”
“Nhưng bà có quyền giúp lão đẩy nhanh quá trình ấy, tôi đoán thế,”
McLoughlin mỉa mai.
“Đó là một lão già nhỏ thó, buồn khổ, chỉ được an ủi khi có một chai
whisky trong tay,” bà Thompson điềm tĩnh nói. “Nếu rũ bỏ niềm an ủi ấy
của lão thì thật độc ác. Chúng tôi cho lão tiền để mua thức ăn, giày để đi và
khuyên lão tìm ai đó giúp lão thoát khỏi cơn nghiện ngập. Chúng tôi đâu
thể làm gì hơn. Lương tâm của tôi không hề phải hổ thẹn, trung sĩ ạ.”
“Wally kể rằng lão đến đây vào thứ Bảy ngày 27 tháng Năm.” Walsh nói
bâng quơ.