dễ tổn thương đó, chúng khác nào tấm áo choàng mỏng che đậy trí tuệ sắc
bén bên trong.
“Ông đợi một chút, tôi phải nhớ lại đã. Thật lòng, tôi chẳng nhớ nổi liệu
chúng tôi có sử dụng hầm trữ đông lần nào suốt thời gian chung sống
không nữa. Không có ấn tượng gì.” Phoebe ngừng một lát. “Nhưng trong
một kì nghỉ đông tôi về thăm nhà, thì thấy cha dùng hầm làm buồng tối để
rửa ảnh, mà cũng chỉ một thời gian thôi.” Cô mỉm cười, kí ức về cha như
đong đầy những yên bình hạnh phúc.
“Ông bảo làm việc ở cái nơi lạnh lẽo ấy mới chán làm sao, nên về sau
toàn mang phim xuống chỗ thợ rửa ảnh chuyên nghiệp ở Silverborne. Mẹ
tôi đùa rằng, đó là tại ông thích đổ lỗi cho người khác khi ảnh ra quá xấu,
và tình huống này lại quá thường xuyên. Cha không phải thợ chụp ảnh tài
năng cho lắm.” Cô nhìn chằm chằm vào viên chánh thanh tra. “Tôi không
nhớ sau đó hầm trữ đông có được sử dụng nữa không, cho đến khi chúng
tôi quyết định cất đống gạch vào đấy. Biết đâu bọn trẻ lại biết. Để tôi hỏi
xem.”
Walsh nhớ những đứa con của Phoebe. Một thằng bé mười tuổi cao lêu
nghêu, rời trường tiểu học tư thục nội trú về nhà giữa cuộc điều tra, đôi mắt
xanh trong như mắt mẹ, và một đứa con gái tám tuổi có những lọn tóc xoăn
sẫm màu. Chúng bảo vệ mẹ mình, cũng dữ dội như cách hai người bạn của
Phoebe đã thể hiện lúc trước ở phòng khách. Walsh nói: “ Jonathan và Jane.
Hai đứa vẫn sống ở nhà à?”
“Không hoàn toàn. Jonathan thuê một căn hộ ở London. Thằng bé là sinh
viên y khoa ở Guy. Jane đang theo học chính trị và triết học ở Oxford.
Chúng chỉ về nhà vào những dịp cuối tuần rảnh rang và kì nghỉ dài. Thế
thôi.”
“Giỏi đấy chứ. Hẳn cô rất hài lòng.” Ông chua chát nghĩ về con gái
mình: mang thai ở tuổi 16 và giờ đã 25, ly hôn, một mình nuôi bốn đứa trẻ,
không có gì để trông đợi ngoài cuộc sống cơ cực ở một căn hộ tồi tàn. Ông
đọc lại ảnh ghi chép của mình. “Khác với lần trước, hình như cô đã có công
việc mới, cô Maybury. Hạ sĩ Williams nói cô là một chuyên gia làm vườn.”