luôn lớp vỏ cười cợt phóng đãng khỏi khuôn mặt ấy, đưa những đường nét
ấy trở lại dáng vẻ hết sức căng thẳng.
Cô và người đàn ông da màu nhọc nhằn nhích lên chậm như sên qua
bốn tầng lầu tưởng chừng vô tận, rồi ông ta dừng thang máy để cô đi ra.
Ông ta có vẻ định chờ tới khi cô quay xuống tầng trệt, vì thế cô tống khứ
ông ta đi bằng câu nói sỗ sàng, “Thế là được rồi, tôi sẽ ở trên này lâu đấy.”
Ông ta đóng cánh cửa thang máy ọp ẹp lại, và một vệt sáng miễn
cưỡng hạ xuống trên tấm kính như bị thứ gì đó lén lút hút đi; tấm kính trở
nên tối om, trống trơn.
Cô quay người bước dọc theo hành lang ẩm mốc sáng mờ mờ, theo dải
thảm trải sàn chỉ còn gắn kết với nhau nhờ sự bướng bỉnh của khung sợi
dệt. Những cánh cửa tăm tối, bí hiểm, bị lãng quên, lần lượt khép nép trôi
qua. Tất cả hy vọng đều đã rời bỏ chúng, rời bỏ những người đã đi ra đi vào
qua chúng. Chỉ là một dãy những miệng lỗ bị bịt kín nữa của cái tổ ong
thành phố khổng lồ này. Con người không nên bước qua những cánh cửa
đó, không nên ở lại đằng sau chúng. Ánh trăng chưa từng lọt vào đó, cả
những vì sao cũng không, chẳng có gì hết. Chúng còn kinh khủng hơn cả
những huyệt mộ, vì trong huyệt mộ chẳng còn ý thức nữa. Và Chúa, cô
thầm nghĩ, đã ban huyệt mộ cho tất cả chúng ta; nhưng Chúa đã không ra
lệnh đào chúng trong một khách sạn hạng ba ở thành phố New York.
Hành lang này có vẻ dài, nhưng có khi đó là vì dòng suy nghĩ của cô
quá nhanh. Chúng đang cuồng loạn cuộn tung lên, trong khi đôi chân đã
đưa cô tới cái đích cận kề phía trước, sau chỗ rẽ.
Mình làm cách nào để vào được đây? Và nếu vào được, mình sẽ làm
thế nào để biết, để phát giác ra liệu có phải cô ta đã giết người đàn ông đó
hay không? Người ta sẽ không nói với mình những chuyện như thế. Về lý
mà nói thì cả bang New York uy nghi cũng không thể khiến những lời đó đi
qua đôi môi cô ta được, vậy thì làm sao mình có thể, khi chỉ có một mình,
không ai trợ giúp? Và dù mình có làm được, thì làm sao mình có thể lôi cô
ta trở lại đó, tới tận phố Bảy Mươi Đông, mà không gây ra một vụ huyên