viện ở mức độ hạn chế. Trong phòng có một chiếc bàn làm việc kiểu
Sheraton, vì thế nó có thể được sử dụng như phòng làm việc ở một mức độ
nhất định. Có mấy chiếc ghế tựa bọc da êm ái, giống như loại được kê
trong các câu lạc bộ; một tủ rượu và những chiếc gạt tàn, khiến nó trông
giống một phiên bản phòng khách nam giới hơn bất cứ chức năng nào khác.
Một phòng khách trên lầu, gắn liền với một người cụ thể hơn là với cả ngôi
nhà. Ở một xã hội cổ xưa hơn, một nơi như thế đã từng có lúc được gọi là
hang ổ.
Căn phòng không nam tính tới mức tự cao tự đại, tính cách của nó
không hề hiển hiện rõ ràng. Nó trước nhất và hơn hết là một căn phòng,
phần còn lại hoàn toàn là do góc nhìn của người quan sát.
Các bức tường có màu xanh lục nhạt, nhạt tới mức chúng có vẻ trắng
toát dưới ánh đèn. Chỉ khi một màu trắng thực sự được đặt kề bên chúng,
chẳng hạn như khi một tờ giấy được giơ lên trên nền của các bức tường, khi
đó mới có thể nhận ra tông màu nhạt nhòa đó. Các món đồ gỗ đều làm bằng
gỗ óc chó. Thảm và lưng tựa ghế đều mang màu nâu sẫm như đất. Những
chiếc chụp đèn – có tất cả hai cái – đều được làm bằng giấy da.
Căn phòng có hình chữ nhật, thuôn dài theo hướng họ bước vào. Hai
bức tường của hai cạnh ngắn đều để trơn. Bức tường phía sau họ tất nhiên
là có khung cửa, thứ mà họ vừa dùng để vào phòng. Bức tường đối diện có
hai, một dẫn vào phòng ngủ, cái còn lại dẫn vào phòng tắm. Quinn rời khỏi
cô, bước vào phòng ngủ. Cô có thể thấy hình dáng không rõ ràng của anh
trong căn phòng tối mờ đó, đang kéo những tấm rèm nặng trịch che kín các
cửa sổ để tránh cho ánh sáng lọt ra phía sau ngôi nhà. Căn phòng họ vừa
bước vào không có lối thông ra ngoài, không có cửa sổ, không có gì hết.
Anh không bận tâm tới buồng tắm, như vậy rõ ràng nó cũng không hề
có cửa sổ hay lối thoát nào.
Cô cảm nhận được anh, được các cử động của anh, nhưng chỉ loáng
thoáng, như một thứ nằm ngoài tầm nhìn, một thứ ở ngoài phạm vi nhận
thức của cô.