và cái xác vẫn còn một lớp áo sơ mi cứng đờ.
“Lấy mọi thứ ra”, cô khẽ thì thào, “không quan trọng là thứ gì.”
Cô khẽ lẩm bẩm kiểm kê lại mọi thứ, đủ để anh nghe được trong khi
họ bắt tay vào việc, chuyển mọi thứ từ trong túi qua, từ tay anh sang bàn
tay cô rồi đặt xuống sàn.
Một cách ghê rợn, họ giống như hai đứa trẻ lớn quá khổ đang chơi với
những cái xô trên một đống cát, hay đang nặn bánh đất hoặc chơi trò gì đó.
Cái cách họ ngồi cạnh nhau, đầu gối chĩa lên. Anh không nói gì, song từ
khuôn mặt anh, cô có thể thấy rằng anh đang nghĩ họ chẳng có chút cơ hội
nào... không phải với quãng thời gian ngắn ngủi còn lại của họ.
Đằng sau họ, trên giá sách, có một chiếc đồng hồ. Họ đang phải dùng
hết sức mạnh tinh thần để ngăn bản thân không ngoái lại nhìn nó. Nhưng
họ vẫn có thể nghe thấy nó. Nó không ngừng băm nát sự im lặng. Nó
không ngớt tích tắc, tích tắc thật giễu cợt, thật tàn nhẫn, thật nhanh chóng.
Không bao giờ ngưng lại, không bao giờ bỏ cuộc, chạy, chạy, chạy...
“Hộp đựng thuốc lá. Bằng bạc. Của Tiffany’s. Được tặng cho anh ta
bởi một người có chữ cái đầu tên là B. Tặng S từ B. Trong hộp còn lại ba
điếu thuốc. Dunhill.” Cạch. Cô đóng cái hộp lại rồi đặt xuống.
“Ví. Trâm cài cà vạt hiệu Mark Cross. Hai tờ năm đô la và một tờ một
đô la. Hai vé xem chương trình biểu diễn ở Winter Garden. C-112,114.
Hàng ghế thứ ba kể từ chỗ dàn nhạc, hẳn là vậy rồi. Được, ít ra thì chúng ta
cũng biết anh ta đã ở đâu tối nay, từ tám giờ bốn mươi đến mười một giờ.”
“Hai giờ rưỡi trong ba mươi lăm năm”, anh ảm đạm nói.
“Chúng ta không cần phải lần ngược lại cả cuộc đời anh ta. Chúng ta
chỉ cần tìm hiểu những gì đã diễn ra trong khoảng hai giờ hay hai giờ rưỡi
tiếp theo, sau khi buổi trình diễn kết thúc. Anh ta đã không bị giết tại
Winter Garden; anh ta vẫn còn sống khi bước ra khỏi đó. Điều này đã thu
ngắn buổi tối lại đáng kể, đã loại đi một khoảng thời gian dài.”