Trong thiên Nạn tam, ông chép lại truyện dưới đây:
“Lỗ Mục công hỏi Tử Tư (cháu nội của Khổng Tử):
- Ta nghe nói con của Bàng Giản bất hiếu. Hạnh kiểm nó ra sao?
Tử Tư đáp:
- Người quân tử tôn hiền trọng đức, nêu điều tốt ra để khuyên người,
còn những hạnh kiểm lầm lẫn là để cho tiểu nhân nhớ, thần không biết tới.
Tử Tư lui ra, Tử Phục Lệ Bá (một đại phu nước Lỗ) vô, Mục công hỏi về
con họ Bàng Giản, Tử Phục Lệ Bá nói:
- Nó có ba cái lỗi mà nhà vua chưa được nghe.
Từ đó Mục công quí Tử Tư và coi thường Lệ Bá”-
Tử Tư đã theo được đúng lời dạy: “Quân tử thành nhân chi mĩ” của ông
nội. Pháp gia cho dạy dân như vậy là làm loạn nước. Hàn dẫn lời của Giang
Ất bảo vua nước Sở, đại ý rằng nếu người quân tử không che cái tốt của
người, không vạch cái xấu của người thì những kẻ làm loạn sẽ thành công
mà nước sẽ nguy.
Ông biết Thương Ưởng là nạn nhân của chính sách mình, nhưng ông đã can
đảm bảo nếu gặp một ông vua theo pháp thuật của ông để làm cho nước
mạnh thì dù chết thảm như Thương Ưởng ông cũng không ngại; mà lịch sử
đã chứng minh rằng trong thời loạn, chính sách mạnh của Thương Ưởng
làm cho quốc gia mau mạnh, nhưng lịch sử cũng chứng tỏ thêm rằng nếu
chỉ dùng chính sách đó thôi thì khó mà bền được, nhất là khi kẻ thù ở sát
biên giới luôn luôn tìm cách khai thác sự bất mãn của dân trong nước.
Hàn Phi cũng rất nghiêm khắc về việc thống nhất tư tưởng: cấm “tư học”,
cấm tranh biện. “Học tư” là các thuyết của Nho, Mặc, Lão, Trang, Trâu
Diễn… và của các biện sĩ, còn học công là pháp lệnh của quốc gia. Pháp
gia cấm tất cả những cái riêng tư mà học tư là cái nguy hiểm nhất, làm cho
vua quan và dân chúng hoang mang, chia rẽ, hoang mang thì không tin
chính quyền, chính quyền khó sai khiến, mà chia rẽ thì yếu.
Thiên Hiển học, ông vạch những mâu thuẫn lẫn nhau giữa các học thuyết
lưu hành đương thời, mà các vua chúa không biết phán đoán đều tin cả,
thành thử không có chủ trương nhất định, đầu mối của loạn. Ông đưa ra hai
thí dụ: Mặc khuyên phải tiết kiệm trong việc chôn cất, mà Nho thì phá sản